Thứ Năm, 25/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Cây mắc ca – huyền thoại hay ngộ nhận?

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Cây mắc ca – huyền thoại hay ngộ nhận?

GS TS Nguyễn Tử Siêm (*)

(TBKTSG Online) – Trong những chủ trương phát triển trồng trọt từ trước đến nay ít có loại cây nào gây nên một sự bàn thảo sôi nổi như cây mắc ca – một cây trồng mới được Chính phủ chủ trương mở rộng mạnh mẽ, triển khai một cách cấp tập và cũng nhận được nhiều ý kiến trái chiều.

Người chủ trương và ủng hộ mệnh danh mắc ca là “nữ hoàng” của các loại hạt, “cây tỉ đô”, “cây vàng”, người do dự cũng không ít lý do để mà cảnh báo.

Cây mắc ca - huyền thoại hay ngộ nhận?
Bí thư Huyện ủy huyện Tuy Đức bên cây mắc ca đã cho trái tại Tuy Đức, Đak Nông. Ảnh Thanh Thương

Chúng tôi cho rằng sự phát triển thành công cây mắc ca quyết định ở tính bền vững của nó trong hệ thống cây trồng và tính cạnh tranh của nông sản này trên thị trường. Do vậy, đánh giá đúng tiềm năng cũng như lường hết sự rủi ro chính là đóng góp tốt nhất cho việc thực hiện chủ trương này của Chính phủ.

Sau đây xin bàn nhiều về các thách thức. Năng suất của cây mắc ca chỉ bằng khoảng 1/3 so với các loại cây trồng cho quả hạch khác; tỷ lệ nhân trong hạt cũng thấp hơn nhiều (4 kg hạt tốt được 1 kg nhân), tỉ lệ hao hụt, sấy khô, khấu hao, nhân công làm cho giá thành nhân khá cao. Vỏ hạt mắc ca rất cứng cần đầu tư thiết bị chế biến đặc biệt. Cũng do năng suất nhân thấp, đầu tư ban đầu cao, công nghệ cao và tiêu chuẩn chất lượng rất cao nên lợi nhuận phụ thuộc rất lớn vào giá thị trường đầu cuối chuỗi giá trị, và giá cả thì rất khó dự báo. Người quyết định sẽ là các công ty đa quốc gia về thực phẩm cao cấp, mỹ phẩm và các tác nhân nắm công nghệ cao về chế biến; người làm ra sản phẩm sơ cấp chịu nhiều rủi ro hơn.

Về giá trị của hạt mắc ca, khi lấy hàm lượng dinh dưỡng mà so sánh thì nó có những ưu điểm, nhưng không có cơ sở để kết luận không có loại hạt nào thay thế được. Với hàm lượng dầu cao vượt trội (chất béo 78,2%) hạt mắc ca rất khó bảo quản.

Còn về hiệu quả kinh tế thì không thể lấy giá trong siêu thị của các nước phát triển mà nhân với năng suất tối đa; vì để đạt được giá bán đó còn bao nhiêu điều kiện khắt khe về an toàn thực phẩm phải thỏa mãn. Giá hạt mắc ca trên thị trường thế giới vào khoảng 2-3 đô la Mỹ/kg hạt; giá cao hơn thế chỉ là trong trường hợp nhất thời, không nên coi là giá trung bình. Có người nêu giá hạt 30 đô la/kg là thổi phồng.

Về thổ nhưỡng, mắc ca cần đất tốt, thoát nước; ít chua (độ pH = 5,5 – 6,5). Đất đồi của ta phần lớn có độ pH < 5.5; tương tự như đậu phộng hay hướng dương, khi pH < 5 tỷ lệ hạt mắc ca bị lép rất cao. Cây mắc ca cần khí hậu mát, mưa ẩm và khô hạn xen kẽ; cần lượng mưa bình quân 1.000–2.000 mm/năm, nhiệt độ bình quân 25 độ C; không thấp dưới 10 độ C. Nhiệt độ thích hợp nhất là 12 độ C đến 32 độ C. Một trong những yêu cầu sinh thái thiết yếu nhất đối với cây mắc ca là biên độ nhiệt, đặc biệt là nhiệt độ thích hợp cho cây ra hoa. Nhiệt độ tối ưu để cây ra nhiều hoa là từ 12 độ C đến 21 độ C, tốt nhất là 18 độ C. Nếu nhiệt độ ban đêm thấp hơn 12 độ C và cao hơn 21 độ C cây đều không thể hình thành chồi hoa. Sự phân hoá để hình thành chồi hoa diễn ra trong tháng 11 và nở hoa vào cuối tháng 2 đến đầu tháng 4. Hầu hết các giống mắc ca đều bị khô đọt ở trên 35 độ C và ngừng quang hợp ở 38 độ C.

Ở Tây Nguyên nước ta chỉ những vùng cao từ 500 đến 1.000m mới có thể có các điều kiện khí hậu như vậy, phối hợp với tiêu chuẩn đất nữa thì diện tích phù hợp cho mắc ca không lớn. Những diện tích thích hợp như vậy đã được sử dụng cho các cây khác nên không còn nhiều, đòi hỏi liền khoảnh 50 ha càng khó. Làm vùng tập trung, qui mô lớn là một thách thức giữa biển nông dân nhỏ lẻ và còn qui định hạn điền.

Theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp tỉnh, hiện cây mắc ca ở Đak Lak mới chỉ trồng ở dạng thử nghiệm, điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu tại nhiều khu vực trong tỉnh không phù hợp với loại cây này, nên cân nhắc kỹ, tránh đầu tư ồ ạt để rồi gánh lấy hậu quả về sau.

Cây mắc ca rất nhiều hoa, mỗi chùm bông hình đuôi sóc có từ 100-300 hoa, nhưng tỷ lệ đậu quả lại rất thấp, chỉ đạt 0,1 – 0,3%; khí hậu không thuận lợi có thể hoàn toàn không đậu quả. Ra hoa đậu quả đòi hỏi một nhiệt độ ổn định và thấp (khoảng 18-25 độ C), phải kéo dài trong vài tháng. Là cây tự thụ phấn và thụ phấn chéo, nếu trồng đơn lẻ, trồng xen năng suất sẽ không cao. Bộ rễ ăn nông, cây dễ đổ khi gió lớn. Những trở ngại này rất dễ gặp ở Tây Bắc và Tây Nguyên và ngay trong một tỉnh không phải vùng nào cũng trồng được. Điều kiện đất đai-khí hậu phức tạp của ta đòi hỏi phải đánh giá tính thích hợp của mắc ca cho mỗi vùng trồng hẹp. Đây là điều kiện tiên quyết nhưng chúng ta chưa làm.

Theo quy hoạch đến năm 2020 sẽ có 200.000 ha trồng mắc ca tại Tây Nguyên và 30.000 ha tại Tây Bắc. Dự kiến đến năm 2025 tổng sản lượng hạt mắc ca của Việt Nam đạt 200.000 tấn hạt. Mục tiêu này là quá cao nếu lưu ý rằng sau mấy chục năm phát triển, đến nay cả thế giới mới có 80.000 ha cây mắc ca. Mặt khác cũng chưa lý giải được thỏa đáng tại sao ở những nơi xuất xứ và thuận lợi cho mắc- ca lại có công nghệ cao như Úc, Nam Phi, Mỹ, Guatemala mà họ không mở rộng diện tích nhanh chóng.

Mắc ca nhân giống bằng chiết ghép, và sau ít nhất 7–10 năm mới cho thu hoạch kinh tế; điểm hòa vốn rất chậm; nếu trồng bằng cây thực sinh sẽ không cho quả. Giống như các cây lâu năm (cà phê, cao su, …) khi cây mắc ca còn nhỏ nông dân không thể nhận biết đâu là giống tốt, cây ghép hay thực sinh; sau khi trồng hàng chục năm mới biết thì chỉ có chặt bỏ.

Hệ thống cung ứng giống chưa được tổ chức; hạt mắc ca chủ yếu là nhập khẩu, không có mấy đơn vị sản xuất giống có chứng chỉ; nếu gặp rủi ro thì đương nhiên người trồng gánh chịu. Hiện nay giống mắc ca hầu hết đều không rõ nguồn gốc, xuất xứ, không ít nhà vườn lai ghép những loại cây kém chất lượng người dân rất khó nhận biết.

Ở Lâm Hà tỉnh Lâm Đồng nhiều hộ dân đã phá bỏ hàng loạt vườn mắc ca bởi cây dù tươi tốt nhưng lại không cho quả. Như vậy, muốn phát triển đồng loạt thì cũng không thể cung cấp giống tốt kịp được. Về trồng xen, mắc ca là cây tán rộng, chiếm đất (mật độ đông đặc 300 cây/ha), lá rậm, không thích hợp như các cây trồng xen cho cà phê hay chè (như muồng đen, muồng lá khế, keo dậu, …là những cây đã lọc lựa từ mấy chục năm qua). Khi trồng xen, chưa kể việc tranh chấp nước và chất dinh dưỡng, thì việc bón phân khoáng, phun thuốc chắc chắn ảnh hưởng đến tiêu chuẩn an toàn thực phẩm do khách hàng yêu cầu. Thử nghiệm trồng xen cây mắc ca với cây cà phê đầu tiên năm 2004 ở một hộ huyện Krông Năng chưa rút ra kết luận đáng tin. Chúng ta cũng đã trồng xen cà phê với trẩu, quế, sầu riêng, v.v. và đã không thành công.

Về bệnh, cây mắc ca rất mẫn cảm với phytophthora, cần phải chọn tạo giống đủ sức đề kháng. Bệnh nấm này đã gặp ở cao su, khó trị và việc phun thuốc sẽ ảnh hưởng tới chất lượng hạt; bị vướng vào tiêu chuẩn an toàn thực phẩm mà khách hàng qui định nghiêm ngặt.

Về dự báo thị trường, đến nay chưa có dự báo thị trường một cách thuyết phục. Thông tin sau đây đáng để suy nghĩ: “Đến năm 2006 thì sản lượng mắc ca ở Hawaii bắt đầu giảm do cung vượt cầu. Năm 2013 toàn thế giới sản xuất khoảng 135.000 tấn hạt mắc ca chưa bóc vỏ. Mỹ định trồng thương mại ở Florida nhưng thất bại vì năng suất thấp”.

Nghiên cứu lâu nhất về so sánh giống mắc ca là của Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, từ năm 2002 đến nay mới chọn được 10 giống có triển vọng, đem trồng khảo nghiệm diện hẹp ở mấy nơi quanh Buôn Ma Thuột và các chuyên gia của Viện đưa ra khuyến nghị rất thận trọng là cần phải được đánh giá kỹ trước khi phổ biến rộng rãi ra sản xuất, đặc biệt là công tác chọn giống và quy hoạch vùng trồng cho cây mắc ca.

Phải khẳng định rằng Việt Nam chưa có nhiều chuyên gia về cây mắc ca, còn chuyên gia về sản phẩm mắc ca thì gần như chưa có. Trong khi đó thì nhiều ý kiến khác (chủ yếu là người không nghiên cứu) lại khuyến nghị mở rộng một cách thái quá rất dễ gây ấn tượng mắc ca là một huyền thoại. Một số ngân hàng lớn nhanh chóng hưởng ứng, cam kết đầu tư hàng chục ngàn tỉ đồng, có vị lãnh đạo ngân hàng nói “sẽ không chỉ bàn mà làm luôn”, vị khác quyết tâm: “Không ai làm thì tôi cũng tự trồng”. Phải chăng cứ có tiền là trồng được?

Nhưng cũng có người có trách nhiệm quản lý vốn cho rằng: “…cần có quy hoạch, xây dựng các quy chuẩn tạo giống và chăm sóc, hướng dẫn việc chế biến, làm sao để chế biến sâu và thực sự tạo nên được các chuỗi giá trị từ hạt mắc ca”; đây là sự thận trọng cần thiết.

Trong luồng ý kiến bàn thảo vừa qua, đáng lưu ý là chưa thấy tiếng nói của những người trồng mắc ca đích thực. Cơ sở khoa học phát triển mắc ca còn nhiều điểm chưa chắc chắn, chưa thể yên tâm. Để phát triển cây trồng chủ lực như cà phê, cao su, ngô,…chúng ta có các viện nghiên cứu tương ứng mà cũng phải nhiều thập kỷ mới định vị được các cây này trong hệ thống nông nghiệp.

Tuổi thọ vườn cây chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ để nghề sản xuất mắc ca bền vững phải xét từ khía cạnh kinh tế (hiệu quả trên đơn vị đầu tư, giá trị gia tăng,…); khía cạnh xã hội (mức độ hưởng lợi của các bên tham gia) và môi trường (tài nguyên đất, nước, xử lý ô nhiễm, v.v.). Như vậy chắc chắn phải qua nghiên cứu và thử nghiệm giống từng bước, song đến nay vẫn chưa có một bộ giống chuẩn về cây mắc ca cho vùng Tây Nguyên. Hiện mới chỉ có vài mô hình nhỏ trong khi Tây Nguyên, Tây Bắc thì rộng lớn, vì thế phải khảo nghiệm rộng hơn trước khi cho trồng mở rộng.

Để có cơ sở khoa học, ít nhất phải có một đề tài lớn nghiên cứu triển khai một cách toàn diện và đồng bộ. Phát triển mắc ca là một chủ trương lớn nhưng chưa chuẩn bị đầy đủ. Để chắc chắn thành công cần phải đánh giá và dự báo thị trường tốt hơn, đánh giá mức độ thích hợp (cả đất và khí hậu); qui hoạch chi tiết; nghiên cứu thử nghiệm (R&D) trước khi mở rộng; khảo nghiệm để có bộ giống tốt; tổ chức hệ thống cung cấp giống xác nhận; chọn công nghệ và tổ chức hệ thống thu mua, chế biến bảo đảm tiêu chuẩn an toàn thực phẩm; thông tin đầy đủ và tập huấn người trồng.

Phát biểu tại Hội thảo “Chiến lược phát triển cây mắc ca” ngày 7-2 vừa qua, ông Vương Đình Huệ, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Đảng, đã chỉ ra rằng “Việt Nam chưa có một chiến lược phát triển cây mắc ca”. Một chiến lược như vậy phải có trước khi trồng đồng loạt và những nội dung trên cần được tính đến trong việc xây dựng chiến lược đó.

(*) Cố vấn trưởng Kỹ thuật Quốc tế, Bộ Ngoại giao & Phát triển Canada (Nguyên Cục trưởng cục Khuyến nông & Khuyến lâm)

Đọc thêm:

– Các dữ liệu "hoang tưởng" về cây mắc-ca

– Cây mắc-ca và nhiều bài toán phải giải

– Đưa cây mắc-ca lọt vào danh sách “cây trồng tỉ đô”

– NHNN sẽ hỗ trợ phát triển cây mắc ca ở Tây Nguyên

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới