“Chuyện nhỏ” của thị trường
![]() |
Cho đến nay, thông tin trong bản cáo bạch của nhiều công ty niêm yết vẫn chưa được kiểm chứng độc lập. Ảnh: Lê Toàn. |
(TBKTSG) - Những gì được mang đến hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) năm 2009 tổ chức vào tuần trước tại Hà Nội không phải là các giải pháp to tát để cứu thị trường mà lại là những “chuyện nhỏ”. Những chuyện nhỏ ấy bấy lâu nay mới thực sự là nút thắt của sợi dây, níu cánh diều chứng khoán bay lên.
Nút thắt thông tin
Tổng giám đốc Ernst & Young Việt Nam, Trần Đình Cường, dành trọn thời gian được phép phát biểu chỉ để nói về một vấn đề “muôn thuở”, đó là chuyện minh bạch thông tin trên TTCK.
Ngoài việc thông tin trong bản cáo bạch của các công ty niêm yết chưa hoàn toàn được kiểm chứng độc lập, ông Cường đưa ví dụ về tính “trung thực” của các báo cáo định kỳ: “Một số công ty niêm yết cho dù đến hết tháng 11-2008 vẫn công bố lãi và hoàn thành kế hoạch nhưng khi ra báo cáo quí 4 thì lại lỗ trong cả quí. Điều này đã gây sốc cho nhà đầu tư, kể cả các cơ quan quản lý. Loại trừ những tác động của khủng hoảng tài chính, nếu việc dồn lỗ có tính toán của doanh nghiệp niêm yết là có thực, thì nhà đầu tư đã bị thua thiệt rất lớn bởi nhận định sai lệch về triển vọng tài chính của công ty trong một thời gian dài”.
Còn về tính thiếu chính xác của thông tin thì quá phổ biến. Không ít doanh nghiệp công bố thông tin chưa chính xác và sau đó lại đính chính, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định của công chúng đầu tư. Chẳng hạn, có công ty đã công bố nhầm số liệu báo cáo tài chính hoặc phải đính chính không ít lỗi số học trên các báo cáo tài chính công bố.
Ông Tô Hải, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Bản Việt, dẫn thêm rằng không thiếu doanh nghiệp hứa hẹn, cam kết khá “thoải mái” về triển vọng tăng trưởng, lợi nhuận đem lại, lộ trình niêm yết... khi có nhu cầu phát hành, huy động vốn nhưng thực tế không thực hiện theo đúng cam kết với nhà đầu tư, với cổ đông hoặc khi có thay đổi kế hoạch, lộ trình thì cũng không đưa ra lý do hợp lý, không có thông tin phản hồi cho các nhà đầu tư được biết. Tranh chấp giữa các cổ đông lớn, giữa các cổ đông là đại diện phần vốn nhà nước với các cổ đông khác không được giải quyết dứt điểm, chưa hợp tình hợp lý, gây bất bình trong dư luận.
“Những thông tin nhạy cảm như việc mua cổ phiếu quỹ, mua - bán của các thành viên điều hành và những người liên quan trong doanh nghiệp... cần được theo dõi, giám sát từ khâu thông báo đến khi có kết quả thực hiện. Với những doanh nghiệp công bố sẽ thực hiện nhưng không thực hiện hoặc thực hiện qua loa, đại khái cần phải được nêu tên”, ông Hải kiến nghị.
Việc còn nhiều công ty niêm yết xin nộp muộn các báo cáo tài chính, kể cả báo cáo tài chính quí và năm, báo cáo tài chính chưa kiểm toán và đã được kiểm toán vẫn là tình trạng “đến hẹn lại lên”. Hiện đang có tới hơn 50 doanh nghiệp niêm yết xin chậm nộp báo cáo tài chính năm 2008.
Theo quy định hiện hành chỉ có báo cáo tài chính năm là phải kiểm toán. Nhưng ông Bùi Văn Mai - Phó chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam - đề xuất các công ty niêm yết thực hiện việc kiểm toán báo cáo tài chính giữa kỳ trước khi công bố thông tin. Theo ông, có thể thực hiện ngay theo phương án sáu tháng một lần (có nghĩa là báo cáo tài chính quí 1 và quí 2-2009 của tất cả các công ty niêm yết phải được kiểm toán), sau đó chuyển sang phương án 2 là mỗi quí một lần.
Báo cáo tài chính của công ty niêm yết phải được công ty kiểm toán soát xét (interim audit) theo quy định của chuẩn mực kiểm toán số 910 “Công tác soát xét báo cáo tài chính”. Bên cạnh đó, vệc kiểm toán 3 tháng/lần hoặc 6 tháng/lần đã thành thông lệ quốc tế. “Trong bối cảnh các giá trị tài sản liên tục sụt giảm, điều này đặc biệt quan trọng”, ông Mai nói.
Đại diện Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính, Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt, Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán... đều cho rằng báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán phải được công bố bằng tiếng Anh để đảm bảo sự công bằng với nhà đầu tư nước ngoài. Và cần có chế tài xử phạt mạnh hơn với các công ty đại chúng và cá nhân về vi phạm công bố thông tin.
Nút thắt chính sách
Ông Trần Thanh Tân - Chủ tịch Câu lạc bộ Quản lý quỹ Việt Nam, thì cho rằng theo chuẩn kế toán hiện hành, công ty phải trích dự phòng chênh lệch tỷ giá cho các khoản phải trả bằng ngoại tệ (kể cả ngắn hạn và trung, dài hạn) vào thời điểm lập báo cáo tài chính; phần lãi/lỗ do chênh lệch tỷ giá sẽ được ghi nhận trực tiếp vào báo cáo lãi/lỗ trong kỳ.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của các công ty có các khoản vay dài hạn bằng ngoại tệ. Khoản lập dự phòng chênh lệch tỷ giá cho khoản vay dài hạn đã làm nhiều công ty bị thua lỗ trong năm 2008, không thể tiến hành chi trả cổ tức cho cổ đông hoặc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong khi dòng tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ rất lớn.
Ông cho rằng việc thực hiện trích dự phòng chênh lệch tỷ giá và ghi nhận các khoản lỗ vào báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ là cần thiết, tuy nhiên chỉ nên áp dụng cho các khoản nợ phải trả bằng ngoại tệ ngắn hạn hoặc các khoản nợ bằng ngoại tệ dài hạn đến hạn phải trả trong vòng 12 tháng kể từ ngày lập báo cáo tài chính. Phần còn lại liên quan đến khoản vay dài hạn chưa đến hạn phải trả thì vẫn thực hiện trích lập nhưng hạch toán phần chênh lệch trực tiếp vào tài khoản chênh lệch tỷ giá trên bảng cân đối kế toán, không đưa khoản này vào báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ (cách hạch toán này đã từng được thực hiện trong thời gian trước đây tại Việt Nam theo hệ thống kế toán cũ).
Việc hạch toán theo cách này sẽ phản ảnh rõ hơn kết quả kinh doanh trong kỳ và công ty có thể có lợi nhuận để trả cổ tức cho cổ đông, đồng thời duy trì được giá trị cổ phiếu cũng như không bị liệt vào danh sách kiểm soát đặc biệt, ảnh hưởng đến uy tín của công ty trên thị trường. Ngoài ra, công ty cũng có điều kiện để tiến hành nộp thuế thu nhập vào ngân sách nhà nước cũng như thực hiện các nghiệp vụ khác như phát hành thêm cổ phiếu hoặc mua lại cổ phiếu quỹ.
Một câu hỏi gây nhiều chú ý cũng được ông Nguyễn Băng Tâm - Phó chủ tịch CLB các công ty niêm yết - nêu ra: “Năm 2008 chúng ta đã đưa ra chủ trương hạn chế phát hành tăng vốn của các doanh nghiệp niêm yết với lý do bảo vệ thị trường. Chúng ta lo ngại phát hành thêm sẽ làm thị trường bị pha loãng. Vậy quan điểm này có đúng không khi thị trường năm 2008 vẫn liên tục giảm sâu trong khi các doanh nghiệp cần huy động vốn không phát hành được, phải chịu sức ép chi phí lãi vay của năm 2008 quá lớn làm tăng thêm sự thua lỗ?”.
Đại diện Công ty Chứng khoán Ngân hàng ACB cho rằng “điều kiện cần” hiện nay chính là những chính sách của Chính phủ dành cho nhà đầu tư. Các chính sách hạ lãi suất cho vay, cho vay vốn để đầu tư... vẫn chưa có tác động đáng kể đến thị trường. Thông tư 27 của Bộ Tài chính về việc giãn thuế thu nhập cá nhân rất phù hợp trong bối cảnh hiện tại, tuy nhiên nhà đầu tư vẫn phải chờ quyết định của Quốc hội vào tháng 5 tới là có được giữ lại số thuế được giãn nộp hay miễn nộp luôn. Điều mà nhà đầu tư trông chờ chính các chính sách được ban hành ra cần có sự rõ ràng và cụ thể để nhà đầu tư có thể đưa ra những dự đoán và quyết định chính xác hơn.
HỒNG PHÚC
Quỹ bình ổn TTCK: nên chăng? Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển thị trường chứng khoán năm 2009, Phó chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Nguyễn Đoan Hùng đã đề nghị Chính phủ cho phép nghiên cứu việc thành lập Quỹ bình ổn chứng khoán với sự tham gia góp vốn của Nhà nước, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. “Quỹ sẽ đầu tư theo chỉ số, tức lựa chọn một số công ty có thị phần lớn để mua vào, kết hợp với hoạt động mua vào của các tổ chức lớn khác. Sự can thiệp này sẽ tạo sự hồi phục bền vững hơn cho TTCK. Khi thị trường hồi phục có thể bán ra thanh lý quỹ hoặc nhà nước chuyển nhượng lãi cổ phần cho khu vực tư nhân”, ông Hùng nói. Tuy nhiên, trao đổi với TBKTSG bên lề hội nghị này, nhiều ý kiến của các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức chưa “yên tâm” với đề xuất trên. Họ cho rằng chưa nên ưu tiên TTCK so với các vấn đề lớn khác của nền kinh tế như năng lực cạnh tranh thật sự của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế tại Việt Nam, hay vấn đề hạ tầng, nông thôn. “Chúng ta chưa đủ căn cứ để biết chính xác bao nhiêu tiền đổ vào TTCK sẽ kéo thị trường đứng dậy. Cũng như không nên tạo ra một tiền lệ về các quỹ cấp cứu kiểu này”, một luật sư trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán nhận định. Vấn đề ông nêu ra là hiện nay chúng ta không phải thiếu tiền (trong dân) để đổ vào chứng khoán mà cần tạo ra niềm tin vào các tài sản có giá trị dài hạn hơn, cũng như không nên tạo ra những băn khoăn mới cho thị trường. Thay vào việc nghĩ ra một quỹ mới, bà Hương cho rằng chúng ta có thể tăng thêm tính chủ động cho thị trường bằng các công cụ khác, tạo điều kiện cho những định chế tài chính tốt trên thị trường trở thành những nhà tạo lập thị trường như cho phép các công ty chứng khoán có giấy phép tự doanh được phép mua bán trong ngày, hay tạo ra những công cụ mới cho một TTCK chuyên nghiệp như quyền lựa chọn, cho vay chứng khoán... hay cho một nhà đầu tư mở nhiều tài khoản và mua bán trong ngày. HỒNG PHÚC |