Đề nghị xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp thuế của 758.660 người
T.H
(TBKTSG Online) – Sáng ngày 17-9, tiếp tục chương trình phiên họp thứ 37, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về xử lý tiền thuế nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước.
Trong phần thảo luận phiên họp sáng 17-9 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một số ý kiến cho rằng cần làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để nợ tiền thuế lên đến nhiều ngàn tỉ. Ảnh: quochoi.vn |
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, tình hình nợ đọng thuế vẫn còn cao. Cụ thể, tổng số tiền thuế nợ tính đến ngày 31-12-2018 là 81.618 tỉ đồng, tăng 4% so với thời điểm 31-12-2017, trong đó tiền thuế nợ không có khả năng thu ngân sách là 41.387 tỉ đồng, chiếm 50,7% tổng số tiền thuế nợ.
Số nợ do cơ quan thuế quản lý là 76.328 tỉ đồng, tiền thuế nợ không còn khả năng thu hồi của người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, liên quan đến trách nhiệm hình sự, đã tự giải thể, phá sản, ngừng, nghỉ và bỏ địa chỉ kinh doanh là 37.572 tỉ đồng. Số nợ Hải quan quản lý là 5.289 tỉ đồng, không còn khả năng thu là 3.815 tỉ đồng.
Bộ trưởng cũng cho biết, trong số nợ đọng nêu trên, có 759.319 người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, đã tự phá sản, giải thể, người nộp thuế đã chấm dứt kinh doanh, không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan quản lý thuế, người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, người nộp thuế gặp khó khăn bất khả kháng với tổng số nợ đọng là 29.293 tỉ đồng.
Có 2.635 người nộp thuế là người đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự với số tiền thuế nợ là 460 tỉ đồng. 24.113 doanh nghiệp tự giải thể nhưng không thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp theo quy định với số tiền thuế nợ là 2.072 tỉ đồng. 216 doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, tự phá sản nhưng không làm thủ tục phá sản theo quy định với số tiền thuế nợ là 398 tỉ đồng.
731.696 người nộp thuế bỏ địa chỉ kinh doanh không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan quản lý thuế; cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với số tiền thuế nợ là 23.889 tỉ đồng.
Từ tình hình trên, để giải quyết nợ đọng thuế không còn khả năng nộp ngân sách, Chính phủ thấy cần thiết phải xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về xử lý tiền thuế nợ của người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng trình bày.
Tờ trình cũng nêu rõ, dự kiến có 758.660 người nộp thuế thuộc đối tượng, với số nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đề nghị xóa là 10.562 tỉ đồng.
Thẩm tra nội dung Chính phủ trình, Uỷ ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cũng nhất trí về sự cần thiết ban hành nghị quyết. Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ rà soát lại việc xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các đối tượng không tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Đức Hải cũng đề nghị cân nhắc, làm rõ việc xử lý tiền nợ thuế đối với các doanh nghiệp nhà nước, vì doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và hiện nay đang trong tiến trình cổ phần hóa, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, việc khoanh nợ, xóa nợ tiền thuế cần được xử lý trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.
Cơ quan thẩm tra cũng cho rằng cần rà soát, báo cáo rõ việc xử lý tiền thuế nợ đối với các khoản nợ liên quan đến tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… trong dự thảo nghị quyết này, theo đó sẽ khoanh nợ, xóa nợ đối với các trường hợp cụ thể nào liên quan đến đất đai.
Phần thảo luận, một số ý kiến cho rằng cần làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để nợ tiền thuế lên đến nhiều ngàn tỉ.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý trình nội dung xoá nợ thuế để Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ tám (tháng 10-2019), yêu cầu Chính phủ làm rõ trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến tình trạng để nợ thuế thời gian qua, Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc hội kết luận phiên họp.
Bộ trưởng Bộ Tài Chính Đinh Tiến Dũng cho biết, Nghị quyết nói trên quy định về xử lý tiền thuế nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, bao gồm tiền thuế, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp, tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành. Đối tượng áp dụng bao gồm: người nộp thuế có tiền thuế nợ thuộc đối tượng được xử lý tiền thuế nợ quy định tại Nghị quyết này; cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Dự thảo Nghị quyết quy định 04 nguyên tắc xử lý nợ bao gồm nguyên tắc đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật, đúng đối tượng, đúng thẩm quyền và đảm bảo điều kiện quy định hồ sơ, quy trình, thủ tục; nguyên tắc ông khai, minh bạch việc xử lý tiền thuế nợ, đảm bảo việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, giám sát của người dân; tháo gỡ khó khăn cho người nộp thuế, nhưng phải phòng ngừa và ngăn chặn việc lợi dụng chính sách để trục lợi và cố tình chây ỳ, nợ thuế; các trường hợp đã được xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp, nếu phát hiện việc xóa nợ không đúng quy định hoặc người nộp thuế quay lại sản xuất, kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới thì phải hủy quyết định xóa nợ và nộp vào ngân sách khoản nợ đã được xóa. Đối tượng xử lý nợ gồm 07 nhóm đối tượng: người nộp thuế là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh, chưa hoàn thành thủ tục giải thể; người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế; người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác; người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ nhưng chưa được thanh toán. |