Thứ Sáu, 29/03/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Giấc mơ công nghiệp hóa:còn xa vời quá!

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Giấc mơ công nghiệp hóa:còn xa vời quá!

Vũ Quang Việt

Giấc mơ công nghiệp hóa:còn xa vời quá!
Việt Nam vẫn đang tập trung vào công nghiệp gia công, thay vì gia tăng tỷ lệ công nghiệp chế biến trong GDP. Trong ảnh: dàn máy dệt kim của nước ngoài tại một triển lãm thiết bị ngành dệt may tổ chức ở TPHCM. Ảnh: KINH LUÂN

(TBKTSG) – Với mong muốn rằng “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, bài viết này cho rằng dù sử dụng bất cứ định nghĩa hay tiêu chí nào về một nước được gọi là  “công nghiệp hóa”, Việt Nam đang trên đường thụt lùi, chứ không phải tiến lên. 

Theo số liệu thống kê về GDP và lao động phát xuất từ công nghiệp chế biến cho thấy Việt Nam đạt được đỉnh điểm vào năm 2002-2003, chiếm trên 20% GDP và từ đó cứ tụt dốc dần. Mới đây (năm 2012) tỷ lệ đóng góp của công nghiệp chế biến chỉ còn 17% GDP. Nếu tính theo lao động, tỷ lệ đóng góp của công nghiệp chế biến vào lao động đạt hơn 20% vào năm 2011, rồi tụt dốc mạnh xuống 14% vào năm 2012, mất 6%, khoảng 3,3 triệu việc làm.

Chúng ta cần hiểu tỷ lệ đóng góp vào GDP của công nghiệp chế biến như thế nào? Theo Vũ Thành Tự Anh(*), Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO), nói chung căn cứ vào ba tiêu chí, bao gồm giá trị gia tăng hàng công nghiệp chế tạo (MVA) trên đầu người, tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, và tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo trong GDP để phân các nước thành năm nhóm: công nghiệp hóa, công nghiệp hóa mới thế hệ thứ nhất (NICs), công nghiệp hóa mới thế hệ thứ hai, đang phát triển và chậm phát triển. Theo cách phân loại này, ở châu Á, chỉ có Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Hồng Kông thuộc nhóm NICs.

Thật ra, theo tôi nghĩ, các tiêu chí trên của UNIDO không giúp gì cho việc đánh giá trình độ công nghiệp hóa của một nền kinh tế vì sự xuất hiện của tính gia công công nghiệp trong nền kinh tế thế giới hiện nay. Tính gia công có thể định nghĩa là trường hợp sản xuất một món hàng công nghiệp dựa vào phía đối tác nước ngoài cung cấp linh kiện hay nguyên vật liệu (có thể cả tư bản) và tự tiêu thụ sản phẩm.

Trước đây, khi nền kinh tế còn chưa mang tính gia công, các nhà kinh tế khi nghiên cứu quá trình phát triển để xếp một nước vào loại nước công nghiệp hóa phát triển, họ chỉ dùng một tiêu chí rất đơn giản: đó là tỷ lệ đóng góp của công nghiệp chế biến vào GDP. Lý do cũng đơn giản vì ai cũng công nhận các nền kinh tế như Mỹ, Đức hay Nhật là các nền kinh tế tiên tiến và họ đều đạt hay vượt tỷ lệ đóng góp vào GDP của công nghiệp chế biến trên 30% vào những năm 1970, trước khi giảm dần để chuyển sang nền kinh tế dịch vụ.

Như ở Mỹ, năm 2012, công nghiệp chế biến chỉ còn chiếm 12% GDP, trong khi đó dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ giáo dục, y tế, tài chính và thiết kế kỹ thuật ngày càng tăng. Ở Đức và Nhật, có thể nói vẫn còn nằm trong hệ thống công nghiệp cũ (hoặc có khả năng bảo vệ chúng), có tỷ lệ công nghiệp chế biến vẫn còn cao, ở mức 24% và 19%. 

Tiêu chí dùng để đánh giá như trên không còn thích hợp bởi sự phát triển mạnh của công nghiệp gia công kể từ đầu những năm 1980. Với công nghiệp gia công, nước chủ nhà không cần có thời gian lâu dài đầu tư nhiều, nhất là về giáo dục và khoa học nhằm đạt được trình độ kỹ thuật đủ khả năng phát minh, thiết kế hoặc áp dụng công nghệ mới. Họ chỉ cần mở cửa thu hút đầu tư của tư bản nước ngoài, để tư bản nước ngoài làm mọi chuyện liên quan đến đầu óc, còn bản thân chỉ cần cung ứng lao động cơ bắp rẻ tiền.
Chính vì vậy, tỷ lệ đóng góp của công nghiệp gia công vào GDP dù có cao ở nhiều nước châu Á thì cũng không thể xếp chúng vào nhóm các nước công nghệ tiên tiến.

Hơn nữa, phần GDP thu được phải chia lại cho tư bản nước ngoài cũng rất lớn. Ở Việt Nam, tỷ lệ chi trả ra nước ngoài, tính dựa theo số liệu của ADB vào năm 2011, ít nhất lên đến 4,3% GDP. Đây là tỷ lệ chi trả ra nước ngoài, chưa kể phần chia chưa được chuyển ra nước ngoài. Nếu trừ phần chuyển ra nước ngoài này, công nghiệp chế biến ở Việt Nam có lẽ chỉ đóng góp khoảng 13% vào GDP năm 2012 và của Malaysia cũng chỉ còn 20%. Trung Quốc là trường hợp đặc biệt, vì dù có trừ đi phần phải chi trả ra nước ngoài thì tỷ lệ đóng góp của công nghiệp chế biến Trung Quốc cũng vẫn rất lớn, trên 30%. Tuy nhiên, số liệu của Trung Quốc là khó tin cậy vì họ chỉ mới đưa thông tin về công nghiệp chế biến vài năm gần đây (lúc có, lúc không). Liệu Trung Quốc có thể xếp vào nước đã được công nghiệp hóa không hãy còn là dấu hỏi.
Chắc chắn cần nghiên cứu sâu hơn để đưa ra định nghĩa phù hợp về “công nghiệp hóa” cho tình hình kinh tế mở cửa của thế giới hiện nay. Ở đây, tiêu chí về GDP trên đầu người, hay GDP từ công nghiệp trên đầu người tính theo đô la Mỹ mà UNIDO nói tới có thể định vị chỗ đứng của Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay với tiêu chí định nghĩa dễ dãi về công nghiệp hóa, Việt Nam cũng đang tụt hậu dần so với các nước láng giềng khác như đã nói ở trên. 

Không chỉ tập trung vào công nghiệp gia công, điều khó tránh khỏi trong giai đoạn thiếu vốn, Việt Nam cũng lại tập trung tiền của vào phát triển vào khai khoáng (tăng từ 5% năm 1995 lên 12% GDP năm 2012) và các hoạt động ngân hàng tài chính (từ 2% lên 5% GDP cùng thời gian trên). Đó là chưa kể tăng trưởng đáng kể của khu vực dịch vụ buôn bán bất động sản (không kể nhà tự có tự ở) lên tới 2% GDP. Rõ ràng những khu vực phát triển không phải là khu vực nhằm nâng cao khả năng phát triển công nghệ. Vấn đề của phát triển là làm chủ được công nghệ của một hoạt động sản xuất nào đó (từ thiết kế sản phẩm đến thiết kế quy trình sản xuất) để cạnh tranh với nước ngoài chứ không phải là gia công. 

(*) www.kinhtesaigon.vn/home/diendan/ykien/35120

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới