Thứ Bảy, 20/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Khảo sát của Standard Chartered: 41% doanh nghiệp toàn cầu có kế hoạch sản xuất tại Việt Nam

Lê Hoàng

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) – Có 41% số doanh nghiệp toàn cầu được khảo sát cho là đang sản xuất hoặc có kế hoạch sản xuất tại Việt Nam trong 5 -10 năm tới, theo báo cáo của Ngân hàng Standard Chartered được công bố ngày 30-11.

Báo cáo được thực hiện dựa trên mô hình kinh tế dự báo xuất khẩu, trong đó bao gồm một cuộc khảo sát với hơn 500 lãnh đạo cấp cao của các doanh nghiệp toàn cầu.

Ngoài ra, 31% các doanh nghiệp toàn cầu có kế hoạch tận dụng lợi thế của hành lang thương mại Việt Nam – Ấn Độ.

Với nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế, hội nhập và giao thương, Standard Chartered dự báo xuất khẩu của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 535 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030.

Nhiều doanh nghiệp toàn cầu đang và sẽ có kế hoạch sản suất tại Việt Nam trong 5-10 năm tới. Trong ảnh là sản xuất của một doanh nghiệp đa quốc gia có nhà máy tại Việt Nam. Ảnh: Hùng Lê

Theo báo cáo của Ngân hàng Standard Chartered mang tên “Tương lai thương mại 2030: các xu hướng và thị trường cần quan tâm”, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu sẽ tăng gần gấp đôi từ mức 17.400 tỉ đô la Mỹ lên 29.700 tỉ đô la trong thập niên tới.

Báo cáo cũng nêu ra 13 thị trường sẽ có đóng góp lớn vào mức tăng trưởng này, các hành lang thương mại chủ chốt và 5 xu hướng định hình tương lai của thương mại toàn cầu.

Trong đó, Việt Nam là một thị trường quan trọng đóng góp vào tăng trưởng thương mại toàn cầu. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam dự kiến sẽ ghi nhận mức tăng trưởng bình quân hơn 7% mỗi năm và đạt hơn 535 tỉ đô la vào năm 2030.

Cũng theo báo cáo này, 41% các doanh nghiệp toàn cầu được khảo sát hiện đang có hoạt đông sản xuất tại Việt Nam hoặc có kế hoạch sản xuất tại Việt Nam trong 5 – 10 năm tới.

Theo báo cáo, Hoa Kỳ và Trung Quốc Đại lục sẽ tiếp tục là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, lần lượt chiếm 26% và 19% tổng kim ngạch xuất khẩu đến năm 2030. Ấn Độ là thị trường có thể mang đến cho Việt Nam mức tăng trưởng xuất khẩu cao, đạt trung bình 11% mỗi năm từ 2020 đến 2030.

Các lĩnh vực sau sẽ đóng góp lớn vào hoạt động xuất khẩu đến năm 2030:

Lĩnh vực Tỷ trọng xuất khẩu đến năm 2030 Tốc độ tăng trưởng kép hàng năm từ 2020-2030
Máy móc và thiết bị điện 40% 6,4%
Dệt may 21% 6,4%
Nông nghiệp và thực phẩm 15% 8,1%

 

“Với lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, vị trí địa lý gần với các chuỗi cung ứng lớn trên toàn cầu và chính sách cởi mở với đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đang nổi lên là một trung tâm sản xuất của thế giới, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư. Việc tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới thông qua các hiệp định thương mại tự do như Việt Nam – EU, Việt Nam – Anh Quốc, CPTPP và RECP đang mang đến cho Việt Nam nhiều thuận lợi, giúp thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường chuỗi giá trị ở các lĩnh vực cũng như tạo ra việc làm yêu cầu tay nghề cao”, Bà Michele Wee, Tổng giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam, nhận định.

Dự báo xuất khẩu của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 535 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030. Ảnh minh họa: Hùng Lê

Theo báo cáo, thương mại toàn cầu sẽ được định hình bởi 5 xu hướng chính: việc áp dụng rộng rãi các chuẩn mực về thương mại công bằng và bền vững; sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, các rủi ro được đa dạng hóa hơn; tăng cường số hóa và quá trình tái cân bằng hướng tới các thị trường đang nổi có mức tăng trưởng cao. Khoảng 90% lãnh đạo các doanh nghiệp được khảo sát đồng tình rằng những xu hướng này sẽ định hình thương mại toàn cầu và định hướng cho chiến lược mở rộng xuyên biên giới của họ trong 5 tới 10 năm tới.

Toàn cầu hóa sẽ thúc đẩy tăng trưởng trong thập niên tới. Mặc dù quá trình tăng trưởng chú trọng vào thị trường nội địa đang được thúc đẩy trong thời gian gần đây, các hành lang thương mại trong tương lai sẽ không chỉ gói gọn trong khu vực mà sẽ vươn ra toàn cầu, như châu Phi – Đông Á, ASEAN – Nam Á, Đông Á – châu Âu, Đông Á – Trung Đông, Đông Á – châu Âu, Nam Á – Hoa Kỳ.

Châu Á, châu Phi và Trung Đông sẽ chứng kiến sự gia tăng trong nguồn vốn đầu tư. 82% những người được khảo sát cho biết họ đang xem xét đặt các địa điểm sản xuất mới tại những khu vực này trong 5 đến 10 năm tới. Điều này hỗ trợ cho xu hướng tái cân bằng ở các thị trường đang nổi và mức độ đa dạng hóa rủi ro chuỗi cung ứng được mở rộng hơn.

Thúc đẩy chuỗi cung ứng bền vững

Báo cáo chỉ ra một xu hướng quan trọng đó là sự gia tăng của tiêu dùng thông minh và việc áp dụng các tiêu chuẩn thương mại bền vững nhằm giải quyết các quan ngại về biến đổi khí hậu. 90% lãnh đạo các doanh nghiệp được khảo sát đồng tình với việc cần phải áp dụng các tiêu chuẩn này trong chuỗi cung ứng, tuy nhiên, chỉ có 34% trong số đó đặt vấn đề này trong nhóm top 3 các ưu tiên cần được triển khai trong 5 – 10 năm tới.

Với cam kết thúc đẩy hoạt động thương mại toàn cầu bền vững và quá trình chuyển dịch sang mô hình phát thải các-bon bằng 0, Standard Chartered đã triển khai chương trình tài trợ thương mại bền vững nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng chuỗi cung ứng bền vững hơn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cung cấp đẩy đủ các giải pháp tài chính bền vững để hỗ trợ các doanh nghiệp hiện thực hóa các mục tiêu về phát thải các-bon bằng 0.

Trong bối cảnh hiện nay, Standard Chartered tiếp tục chú trọng vào hỗ trợ các thị trường và doanh nghiệp gặt hái lợi ích từ quá trình toàn cầu hóa, từ các doanh nghiệp nhỏ tới các công ty đa quốc gia, và thúc đẩy một mô hình thương mại toàn cầu bền vững và có tính bao trùm hơn. Ngân hàng này cho biết sẽ không ngừng phát triển các giải pháp tài chính bền vững để giúp khách hàng doanh nghiệp ứng dụng hiệu quả các mô hình thương mại công bằng, bền vững trong chuỗi cung ứng.

13 thị trường đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng thương mại

Thị trường Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2030 (USD) Tăng trưởng trung bình hàng năm Các thị trường chính
Bangladesh 51 tỷ 7% Ấn Độ, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Hoa Kỳ
Hồng Kông 939 tỉ 5,7% Nhật Bản, Trung Quốc Đại lục, Hoa Kỳ
Ấn Độ 563 tỉ 7,6% Hồng Kông, Singapore, Hoa Kỳ
Indonesia 347 tỉ 8,1% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Hoa Kỳ
Kenya 10 tỉ 7,7% Pakistan, Uganda, Hoa Kỳ
Trung Quốc Đại lục 5.022 tỉ 7,1% Đức, Malaysia, Việt Nam
Malaysia 498 tỉ 8,3% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Singapore
Nigeria 112 tỉ 9,7% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Indonesia,
Saudi Arabia 354 tỉ 7,6% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Hàn Quốc
Singapore 687 tỉ 7,4% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Malaysia
Hàn Quốc 971 tỉ 7,1% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Việt Nam
Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất 298 tỉ 6,1% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Singapore
Việt Nam 535 tỉ 7% Ấn Độ, Trung Quốc Đại lục, Hoa Kỳ

(Nguồn: Standard Chartered)

Kết quả khảo sát “Triển vọng tái mở cửa, phục hồi và phát triển” thực hiện bởi Hiệp hội thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham), được thực hiện từ ngày 15 đến 17-11 với hơn 550 doanh nghiệp và 2.000 thành viên cá nhân, bao gồm cả chi nhánh Đà Nẵng, cho thấy 29% doanh nghiệp tham gia cuộc khảo sát rất lạc quan về sự phục hồi của Việt Nam và đã có kế hoạch mở rộng, đầu tư thêm, và 49% doanh nghiệp khác dự định ở lại và có thể đầu tư thêm. Chỉ có 1% doanh nghiệp Mỹ có ý định rút đầu tư khỏi Việt Nam.Hiện nay, 63% doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam đã phục hồi hoạt động ở mức 80% hoặc cao hơn. Đối với những doanh nghiệp chưa phục hồi hoạt động, một phần tư số này cho biết sẽ phục hồi sản xuất như bình thường vào cuối năm nay, trong khi hai phần ba doanh nghiệp sẽ cố gắng phục hồi trong nửa đầu năm sau.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới