Thứ Sáu, 19/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Lúa vẫn mua, gạo vẫn xuất, mà nông dân bỏ ruộng!

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Lúa vẫn mua, gạo vẫn xuất, mà nông dân bỏ ruộng!

Nguyễn Văn Huỳnh

(TBKTSG) – Mỗi năm, lúa vẫn được mua và gạo vẫn được xuất khẩu đều đặn, vậy mà nông dân sản xuất lúa không có lời, đến nỗi phải tính bỏ ruộng để ra thành phố làm công nhân! Nghịch lý này bao giờ mới hết?

Lúa vẫn mua, gạo vẫn xuất, mà nông dân bỏ ruộng!
Trực tiếp làm ra hạt lúa, nhưng nông dân vẫn chưa thể sống bằng sản phẩm chính mình làm ra. Ảnh Lê Hoàng Vũ

Để làm ra được hạt lúa đâu phải dễ!

Là người trong cuộc, tôi nhớ năm 2006, Thủ tướng phải tổ chức hội nghị phát động chiến dịch phòng trừ rầy nâu cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vì vừa sau Tết, rầy nâu đã phát triển thành dịch trên lúa đông xuân. Có bao nhiêu thuốc trừ sâu cũng được lệnh phải tung ra hết để bảo vệ lúa và ông chủ tịch tỉnh phải chịu trách nhiệm nếu để rầy nâu tiếp tục lây lan trên đồng ruộng của tỉnh mình. Một thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được phân công trực chiến và “Ban chỉ đạo chống rầy” phải họp giao ban hàng tuần.

Với nhận định rầy nâu di cư theo gió nên gần 300 bẫy đèn đã được bố trí khắp nơi trong vùng để theo dõi mật độ tại chỗ hàng đêm và báo cáo kết quả từng ngày về Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam để tổng hợp và thông báo cho các tỉnh chỉ đạo hàng tuần. Biết được đặc điểm gây hại của rầy nâu nên kỹ thuật “3 giảm – 3 tăng” được chỉ đạo triệt để trên cơ sở phòng trừ tổng hợp (IPM) là sạ thưa, bón ít phân đạm đầu vụ để khỏi phải phun thuốc trừ sâu sớm, nhờ đó thiên địch của rầy nâu phát triển trong ruộng lúa, tạo cân bằng sinh thái để khống chế sự phát triển của rầy nâu.

Sau gần ba năm, nhờ sự chỉ đạo đồng bộ và chặt chẽ này, nên dịch rầy nâu truyền bệnh vàng lùn đã bị đẩy lùi. Từ chỗ phải ra lệnh hạn chế xuất khẩu gạo trong năm 2008, sản xuất lúa của ĐBSCL được thế mới bung lên thành ba vụ trong năm, ban đầu do nông dân tự nguyện rồi sau đó được Nhà nước hỗ trợ và có chủ trương (như năm 2013!). Lý do là lúa xuất khẩu có giá vì các nước khác trong vùng chưa khống chế được rầy nâu. Điển hình là Thái Lan đã cử đoàn qua tham quan học hỏi kinh nghiệm để trị rầy nâu thay vì phải dựa vào thuốc hóa học (cũng giống như Indonesia). Tạp chí Science ngày 16-8-2013 đã giới thiệu thành quả này của Việt Nam và được Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) đề nghị các nước khác trong vùng nên làm theo.

Nông dân thì hầu hết là nghèo, phải vay nợ để sản xuất nên khó có khả năng tồn trữ để chờ giá, nên phải nhờ cò đi rước thương lái đến mua ngay tại ruộng, gần như may nhờ rủi chịu với bất cứ giá nào để có tiền trả nợ vật tư, cũng được chủ nợ đến thu ngay tại ruộng!

Vậy mà trúng mùa lại rớt giá!

Thật ra đâu có rớt, vì lúa vẫn được mua và gạo được xuất khẩu đều đặn: năm ngoái trên 7,2 triệu tấn và năm nay cũng sẽ hơn 7 triệu với giá trên dưới 400 đô la Mỹ/tấn kia mà? Mặc dù có thêm sự cạnh tranh của một số nước như Ấn Độ và có khả năng là Myanmar (chớ Campuchia thì khó), nhưng ĐBSCL vẫn là vựa lúa của cả khu vực, còn chi viện cho các nước châu Phi nữa. Như vậy, lẽ nào nông dân sản xuất lúa không có lời, đến nỗi phải tính bỏ ruộng để ra thành phố làm công nhân?! Nghịch lý đó có chăng là ở mấy chuyện như thế này:

– Hầu hết lúa sản xuất ra ở vùng ĐBSCL là lúa hàng hóa nhằm cho xuất khẩu là chính và đều do Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) định đoạt là chủ yếu. Với nhiệm vụ và quyền hạn quá ôm đồm như hiện nay, VFA làm sao có đủ khả năng để vừa đá bóng vừa thổi còi cho được, nên thực tế là họ gần như giao khoán cho thương lái đến mua gom tại ruộng. Với chính sách và cách làm đó, nông dân thường hay bị ép giá là chuyện hiển nhiên không tránh khỏi.

– Nông dân thì hầu hết là nghèo, phải vay nợ để sản xuất nên khó có khả năng tồn trữ để chờ giá, nên phải nhờ cò đi rước thương lái đến mua ngay tại ruộng, gần như may nhờ rủi chịu với bất cứ giá nào để có tiền trả nợ vật tư, cũng được chủ nợ đến thu ngay tại ruộng! Mà có nông dân nào muốn phơi sấy và tồn trữ để chờ giá cũng không có phương tiện, hoặc có thể hợp tác hay nhờ vả nơi nào.

– Trình độ sản xuất của hầu hết nông dân đều còn quá kém nên làm theo cá thể là chính. Cứ xong vụ này thì chuẩn bị sạ vụ lúa kế tiếp chớ không biết làm gì hơn. Báo đài và cán bộ khuyến nông các cấp có hướng dẫn hoặc chỉ đạo nhưng đa số đều khó lọt tai vì kiến thức đó còn mơ hồ quá đối với họ. Nên cứ thấy lúa lên xanh là mua phân đem rải rồi sau đó mang bình ra xịt ngừa thuốc trừ sâu cho chắc… bụng! Cán bộ khuyến nông tại địa phương thì ít mà đại lý thuốc thì nhiều với đủ thứ tờ rơi, tờ bướm chỉ cách sử dụng thuốc, lại còn được mua chịu để khi bán lúa xong sẽ trả. Do đó, chi phí sản xuất lên cao, đến ngày thấy lúa chín vàng đồng tưởng đâu ngon lành, nhưng khi bán được lúa, tính lại may ra chỉ còn đủ lấy công làm lời!

Nỗi buồn này cứ mãi đeo đẳng đời sống của nông dân, còn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đâu không thấy, chỉ thấy sản xuất nông nghiệp đã thật sự chống đỡ và cứu vãn sự đình đốn của nền kinh tế trong mấy năm qua.

Cần sớm có hướng khắc phục

Để hỗ trợ nông dân ổn định và phát triển sản xuất theo yêu cầu, vừa bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước, vừa sản xuất lúa hàng hóa ưu tiên cho xuất khẩu với chất lượng cao và giá cả khích lệ, trước tiên Nhà nước cần có sự quan tâm cần thiết và hợp lý cho khu vực ĐBSCL.

– Kế đến, nên hướng dẫn nông dân tự nguyện vào sản xuất tập thể để hỗ trợ lẫn nhau về diện tích đất, vốn, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, thu hoạch rồi xử lý và tồn trữ lúa để có giá bán tối ưu. Hình thức “cánh đồng mẫu lớn”, “hợp tác bốn nhà” hay “hợp tác xã kiểu mới” là các bước đi có triển vọng đang được triển khai từng bước để dần hoàn thiện hiện nay. Công ty Bảo vệ thực vật An Giang tổ chức nông dân sản xuất theo cánh đồng mẫu lớn để làm nguồn nguyên liệu xuất khẩu, vừa kêu gọi nông dân vào cổ đông của công ty là một mô hình đáng trân trọng.

– Bên cạnh đó, công tác khuyến nông phải được tổ chức và thực hiện theo hướng chuyển nhanh hiện trạng sản xuất cá thể lạc hậu sang sản xuất tập thể theo kiểu tự nguyện, cập nhật và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật để áp dụng quy trình sản xuất bền vững, thân thiện với môi trường, giảm giá thành và tăng phẩm chất để có lợi nhuận thích đáng nhằm khuyến khích nông dân tự cải tiến, sáng tạo và nhạy bén sẵn có.

– Cuối cùng, VFA chỉ nên lo về đảm bảo an ninh lương thực và chính sách điều tiết hoạt động xuất khẩu lúa gạo, để công tác xuất khẩu cho các doanh nghiệp chức năng thực hiện dựa vào năng lực chớ không phân biệt thành phần. Chính sách hiện nay cho thấy có nhiều đơn vị có nguồn nguyên liệu nhưng không xuất khẩu được hoặc bị hạn chế do vướng chính sách xin cho đang trá hình để tồn tại.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới