Lúng túng chuyện lương, GDP
Nguyễn Vạn Phú
![]() |
Minh họa: Khều. |
(TBKTSG) - Tuần trước, báo chí đưa tin về đề nghị của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) xem xét mức lương của người lao động làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước nhưng thông tin không đầy đủ làm nhiều người hiểu sai đề nghị này.
Số là từ năm 2004, với hai Nghị định 206 và 207, Chính phủ quy định khá chặt chẽ việc quản lý tiền lương và thu nhập trong các công ty nhà nước. Sau đó Bộ LĐ-TB&XH có hàng loạt thông tư hướng dẫn hai nghị định này, với những công thức tính toán phức tạp nhưng đại khái quỹ lương tại những doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc vào năng suất lao động, lợi nhuận, doanh thu... Nếu doanh nghiệp thua lỗ thì quỹ lương giảm xuống và tiền lương của công nhân, kể cả ban lãnh đạo phải giảm theo.
Suy giảm kinh tế đã làm nhiều doanh nghiệp nhà nước thua lỗ trong năm nay hoặc lợi nhuận, doanh thu không bằng năm 2008. Nếu làm đúng theo Nghị định 206 và 207 (cũng như các thông tư hướng dẫn) thì lương của công nhân tại một số tổng công ty giảm mạnh, còn chừng 30-40% mức lương của năm 2008.
Vì thế, đề nghị của Bộ LĐ-TB&XH là nhằm tạm thời không tính toán “sát rạt” như quy định hiện hành mà “du di”: những doanh nghiệp có lợi nhuận giảm nhưng năng suất lao động và sản lượng tiêu thụ không giảm sẽ được giữ mức lương bằng năm 2008; những doanh nghiệp có lợi nhuận, sản lượng tiêu thụ và năng suất lao động đều giảm thì cứ giảm 1% so với năm 2008 thì giảm lương 0,5%, tối đa không giảm quá 15%; những doanh nghiệp không có lợi nhuận hoặc lỗ sẽ có mức lương không vượt quá 80% mức tiền lương bình quân thực hiện năm 2008.
Từ đề nghị này có thể rút ra nhiều điều thú vị.
Thứ nhất, nếu doanh nghiệp nhà nước làm ăn đàng hoàng, sổ sách minh bạch, lời lỗ phân minh thì quy định như hiện nay là một sự trói tay ban điều hành, cần phải sửa đổi. Bởi nhiều doanh nghiệp tư nhân, dù thua lỗ, cũng không giảm lương công nhân vì tầm nhìn dài hơi, vì muốn giữ chân người có năng lực, vì cạnh tranh...
Doanh nghiệp nhà nước không làm được điều này là tự mình đánh mất một công cụ quản lý quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh một số doanh nghiệp nhà nước “lãi giả, lỗ thật” thì các quy định về lương, thưởng vẫn còn cần thiết.
Thứ hai, năm 2008, trong bối cảnh tín dụng dễ dãi, cơ hội bung ra nhiều, không ít doanh nghiệp làm đẹp sổ sách bằng những khoản lợi nhuận khổng lồ để chuẩn bị cho những cơ hội lên sàn chứng khoán bằng các chỉ số tài chính rất ấn tượng. Năm 2009, tình hình kinh tế khó khăn, ngay lập tức các chỉ tiêu đạt được trong năm trước (mà chưa chắc đã có thật) biến thành “cây gậy đập lưng ông” vì doanh nghiệp phải dùng những con số cao ngất ngưởng làm cơ sở so sánh. Quỹ lương năm 2009 co lại là điều dễ hiểu.
Cuối cùng, chuyện trả lương ở doanh nghiệp nhà nước mới được đề cập gần đây trong dự thảo quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước, trong đó quy định các tập đoàn được mở rộng các điều kiện trả lương, thay đổi mức lương thay cho mức lương nhà nước cố định trên cơ sở cân đối doanh thu, bảng lương, tăng năng suất lao động. Tình huống dẫn đến đề nghị nói trên của Bộ LĐ-TB&XH cũng là một căn cứ quan trọng để các bộ, ngành tham khảo nhằm sửa đổi toàn diện cơ chế trả lương tại các doanh nghiệp nhà nước, không nên thỉnh thoảng áp dụng biện pháp tình thế dễ tạo ra sự tùy tiện hay chính mình đi ngược lại quy định đã đặt ra.
Tuần rồi, trả lời phỏng vấn báo chí, một vị tiến sĩ đưa ra nhận định rằng “chỉ 20-30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới”. Ngay lập tức hàng loạt ý kiến ở các diễn đàn đã phản bác nhận định này, đại khái cho rằng nó quá “hoang tưởng”.
Ở đây cần phân biệt hai chuyện: tính chính xác của nhận định và liệu so sánh như vậy có ý nghĩa gì không.
Về mặt số liệu thuần túy, khả năng vị tiến sĩ này đưa ra là có thể xảy ra dưới một số điều kiện. Năm 2008, quy mô nền kinh tế Việt Nam tính theo cân bằng sức mua đứng thứ 44 (nguồn: IMF) hay thứ 45 (nguồn: WB). Xin nhấn mạnh, đây là tính theo cân bằng sức mua bởi nếu tính theo GDP danh nghĩa thì Việt Nam xếp thứ 60 (IMF) hay 57 (WB). Lý do Việt Nam xếp khá cao chỉ bởi vì quy mô dân số lớn, xếp thứ 13 trên toàn thế giới. Nếu Việt Nam duy trì mức tăng trưởng cao như 10 năm qua trong khi các nước đã phát triển chỉ tăng trưởng 2-3% mỗi năm thì 20-30 năm nữa quy mô toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nằm trong top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới là điều có thể xảy ra.
Thật ra, đây là dự báo của Goldman Sachs trong một báo cáo cách đây mấy năm với khái niệm BRICS + N11 – và lúc đó cũng đã gây tranh cãi không kém phần sôi nổi vì báo cáo cho rằng đến năm 2025, quy mô nền kinh tế Việt Nam sẽ đứng thứ 17 và năm 2050 lên hạng 15 toàn thế giới! Phê phán lớn nhất là làm sao duy trì mức tăng trưởng cao liên tục trong hàng chục năm vì lợi thế xuất phát điểm thấp không còn, ngay cả hiện nay phải đầu tư lớn, dùng tài nguyên nhiều mới mong tăng trưởng cao.
Nhưng vấn đề còn nằm ở chỗ so sánh này không có ý nghĩa gì nhiều. Lấy xếp hạng năm 2008, có lẽ ít ai để ý Ấn Độ đang xếp thứ 4 hay Thái Lan đang xếp thứ 24 trong khi những nước có mức sống cao hơn nhiều như Đan Mạch xếp hạng 49, Phần Lan xếp tuốt hạng 52 hay Brunei, nước giàu nhất Đông Nam Á, xếp tận hạng 118. Đó là bởi dân số những nước này quá nhỏ nên dù thu nhập đầu người rất cao, tính ra tổng GDP cũng nhỏ hơn nhiều nước nghèo xơ nghèo xác. Người ta ít khi so sánh theo kiểu vị tiến sĩ nói trên trừ trường hợp nói đến tiềm năng một thị trường đông dân với tổng sức mua đáng để thâm nhập.
Nếu tính GDP trên đầu người tính theo cân bằng sức mua, nước ta đang xếp hạng 129 (IMF) hay 116 (WB); còn tính theo GDP danh nghĩa còn tệ hơn, hạng 139 (IMF) hay 132 (WB), nằm trong diện những nước nghèo nhất thế giới. Đó mới là con số cần nhấn mạnh. Chứ nếu yên tâm với kiểu top 10, top 20 như thế, chỉ cần nghĩ đến Ấn Độ, nước đang có quy mô nền kinh tế lớn thứ 4 toàn cầu với vô vàn vấn đề về nghèo đói, môi trường, bất bình đẳng xã hội... để sực tỉnh với những vấn đề của chính chúng ta.