Thứ Năm, 25/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Nghị định 93 về đóng góp tự nguyện: Một số điểm còn… thả trôi nổi

LS. Trần Thị Kim Nga - Nguyễn Đức Huy(*)

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) – Nghị định 93/2021/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 64/2008/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 11-12 vừa qua có những điểm tiến bộ, nhưng vẫn còn một số điểm chưa thật rõ ràng, có thể tiếp tục gây lúng túng khi thực hiện.

Việc Nghị định 64/2008/NĐ-CP thiếu hành lang pháp lý cho phép các pháp nhân, cá nhân đứng ra vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục thiên tai, sự cố nghiêm trọng và bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo đã phần nào dẫn đến không ít chuyện “lùm xùm”, gây tâm lý e ngại làm việc thiện nguyện trong thời gian qua. Để khắc phục, Chính phủ đã ban hành Nghị định 93/2021/NĐ-CP (NĐ93) thay thế cho 64/2008/NĐ-CP và vừa có hiệu lực thi hành từ ngày 11-12 vừa qua. Nhưng bên cạnh những điểm tiến bộ, NĐ93 vẫn còn một số điểm chưa thật rõ ràng, có thể tiếp tục gây lúng túng khi thực hiện, nên cần được cân nhắc bổ sung hoặc có hướng dẫn phù hợp.

Về thủ tục vận động

Quy định về thủ tục vận động đóng góp tự nguyện là một điểm sáng của NĐ93. Theo đó, các pháp nhân, cá nhân thông báo trên các phương tiện truyền thông hoặc trên trang thông tin điện tử (đối với pháp nhân) cam kết về mục đích, phạm vi, phương thức, đối tượng vận động, hình thức vận động, tài khoản tiếp nhận, địa điểm tiếp nhận, thời gian vận động, tiếp nhận, đối tượng hỗ trợ, thời gian thực hiện hỗ trợ, thời gian cam kết phân phối; sau đó gửi văn bản đến ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi đặt trụ sở chính (đối với pháp nhân) hoặc nơi cư trú (đối với cá nhân) theo mẫu của NĐ93(1).

Tuy nhiên, NĐ93 lại không quy định về việc cá nhân, pháp nhân có được phép thay đổi nội dung của cuộc vận động hay không, nếu có thì cần phải thực hiện thủ tục như thế nào. Thiết nghĩ đây là tình huống không hiếm gặp trên thực tế, cần bổ sung hướng dẫn cụ thể.

Về thời gian tiếp nhận, phân phối

Đối với pháp nhân, thời gian tiếp nhận các khoản đóng góp là không quá 90 ngày, kể từ ngày phát động cuộc vận động, và hạn định cho việc phân phối chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc tiếp nhận(2). NĐ93 cũng cho phép pháp nhân được kéo dài thời gian tiếp nhận và thời gian phân phối khi có cam kết với tổ chức, cá nhân đóng góp, tuy nhiên, đối với cá nhân tiếp nhận, phân phối thì không có quy định(?).

Theo chúng tôi, nên có quy định cho phép cá nhân vận động được kéo dài thời gian tiếp nhận, thời gian phân phối các khoản đóng góp như đối với pháp nhân, bởi lẽ về cơ bản, tính chất công việc này của cá nhân và pháp nhân là tương tự nhau.

Cũng cần lưu ý thêm là trong trường hợp cần thiết, ban vận động từ cấp tỉnh trở lên có thể quyết định kéo dài thời gian tiếp nhận các khoản đóng góp(3). Có thể thấy, tình huống này thường là khi thiên tai, sự cố, dịch bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng kéo dài, dẫn đến việc cần huy động nhiều hơn nguồn lực đóng góp từ xã hội.

Về thủ tục phân phối, sử dụng

Về thủ tục phân phối và sử dụng nguồn đóng góp, pháp nhân, cá nhân vận động đóng góp phải thông báo cho UBND nơi tiếp nhận hỗ trợ theo phân cấp, hoặc liên hệ với UBND cấp tỉnh hướng dẫn khi cần thiết, để phối hợp xác định phạm vi, đối tượng, mức, thời gian hỗ trợ và thực hiện phân phối, sử dụng nguồn đóng góp(4). Trong vòng ba ngày làm việc, UBND nơi tiếp nhận hỗ trợ phải hướng dẫn pháp nhân, cá nhân đó thực hiện các nội dung nêu trên.

Tuy nhiên, NĐ93 lại không quy định tình huống nếu hết thời gian quy định mà UBND không có hướng dẫn thì liệu khi đó, các pháp nhân hay cá nhân có được quyền tự phân phối, sử dụng nguồn đóng góp hay không. Trên thực tế, cứu trợ thiên tai, sự cố, dịch bệnh là việc rất cấp bách. Về điểm này, cần có quy định chặt chẽ để tránh sự chậm trễ, ảnh hưởng đến việc cứu trợ, làm giảm ý nghĩa thiết thực của các hoạt động thiện nguyện vốn dĩ đầy tính nhân ái này.

Trao quyền chủ động cho người đóng góp

Không “phó thác” hoàn toàn cho các pháp nhân, cá nhân vận động đóng góp, NĐ93 quy định nhiều “công cụ” để các tổ chức, cá nhân đóng góp chủ động hơn trong việc giúp đỡ đúng người, đúng thời điểm, đúng địa điểm như họ mong muốn. Có thể nói, đây là điểm rất tiến bộ của NĐ93.

Tổ chức, cá nhân đóng góp cần nắm rõ các quyền và trách nhiệm của họ như sau(5): (i) quyền yêu cầu UBND cấp xã cung cấp thông tin về việc vận động đóng góp theo thông báo của pháp nhân, cá nhân kêu gọi đóng góp; (ii) quyền quyết định thời gian tiếp nhận các khoản đóng góp vượt mốc 90 ngày, thời gian phân phối chậm hơn 20 ngày; (iii) quyền đưa ra điều kiện, địa chỉ cụ thể nhận các khoản vận động và quyền quyết định việc chi khoản đóng góp của mình; (iv) quyền được bàn bạc, thống nhất để có phương án phân phối, sử dụng khoản tiền, hiện vật đã vận động, tiếp nhận còn dư; (v) có trách nhiệm thống nhất với chính quyền địa phương về thiết kế, quy mô, chất lượng, tiến độ sửa chữa, xây dựng công trình trong trường hợp yêu cầu địa chỉ cụ thể để sửa chữa, khôi phục, nâng cấp, xây dựng mới công trình hạ tầng thiết yếu; (vi) quyền đồng ý (hoặc không) về chi phí cho hoạt động vận động, tiếp nhận, phân phối, sử dụng nguồn đóng góp được chi từ nguồn đóng góp của mình, quyền được tiếp cận công khai với các tổng hợp chi phí này nếu đồng ý; (vii) quyền yêu cầu cung cấp biên nhận các khoản đóng góp.

Dựa trên các quyền và trách nhiệm này của người đóng góp, các pháp nhân, cá nhân vận động đóng góp phải thực hiện theo các cam kết (nếu có) đối với bên đóng góp. Tuy nhiên, NĐ93 không quy định về hình thức, nội dung đối với các cam kết này. Xét về bản chất, các cam kết này là giao dịch dân sự giữa pháp nhân, cá nhân đứng ra vận động quyên góp và tổ chức, cá nhân đóng góp, và vì thế sẽ được điều chỉnh theo pháp luật dân sự.

Như vậy, nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của các cam kết này, cũng như tạo cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh hay xử lý vi phạm, cách tốt nhất là các cam kết này phải được lập bằng văn bản hoặc thông qua phương tiện điện tử theo đúng quy định pháp luật.

Về khấu trừ thuế

Theo điều 6.1 và điều 6.2.24 Văn bản hợp nhất 66/VBHN-BTC hợp nhất các thông tư hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), các khoản chi được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ bao gồm “chi tài trợ cho việc khắc phục hậu quả thiên tai”, không bao gồm các trường hợp chi khắc phục hậu quả do sự cố, dịch bệnh, trong khi đó, tính chất của các khoản chi này là tương đồng. Thiết nghĩ nên có sự điều chỉnh đối với quy định này để thống nhất với NĐ93.

Theo pháp luật về thuế TNCN, cá nhân chỉ được miễn thuế TNCN đối với các khoản tiền hỗ trợ nhận được từ các quỹ từ thiện(6) và chưa có quy định nào cho phép miễn thuế TNCN đối với các khoản tiền nhận được từ pháp nhân, cá nhân theo NĐ93. Có thể nói, sẽ bất hợp lý nếu nhà nước thu thuế TNCN của những người nhận hỗ trợ do chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, sự cố, dịch bệnh.

Ngoài ra, pháp luật về thuế TNCN mới chỉ cho phép giảm trừ vào thu nhập chịu thuế đối với các khoản đóng góp của cá nhân vào các tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người khuyết tật, người già không nơi nương tựa hoặc khoản chi đóng góp vào các quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học(7).

Việc các khoản chi của cá nhân đóng góp vào các đợt vận động do pháp nhân, cá nhân phát động theo NĐ93 chưa có quy định được giảm trừ theo pháp luật về thuế TNCN là chưa hợp lý, bởi các khoản chi này cũng mang tính chất từ thiện theo quy định. Vì vậy, các văn bản về thuế TNCN nên có sự điều chỉnh để phù hợp với những quy định mới tại NĐ93.

———–

(*)Công ty Luật Phuoc & Partners

(1)Điều 6.5, điều 17.1, Phụ lục đính kèm NĐ93

(2)Điều 8.2, điều 8.3 NĐ93

(3)Điều 8.2, điều 9.1(a) NĐ93

(4)Điều 10.6(a), điều 18.1 NĐ93

(5)Các điều 6.5, 8.2, 8.3, 9.7, 10.6(a), 10.6(c), 11.3, 17.1, 17.2, 18.3, 18.4, 19.1 NĐ93

(6)Điều 3.1(p) Văn bản hợp nhất 68/VBHN-BTC ngày 19-12-2019 hợp nhất các thông tư hướng dẫn về thuế TNCN

(7)Điều 9.3(a) Văn bản hợp nhất 68/VBHN-BTC ngày 19-12-2019

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới