Nợ công – đừng để cháy nhà mới lo dập lửa
Ts. Trịnh Tiến Dũng
![]() |
Minh họa: Khều. |
(TBKTSG) – (Nhân đọc các bài về nợ công Việt Nam và hồ sơ khủng hoảng nợ ở Hy Lạp trên TBKTSG số ra ngày 13-5-2010)
Vay nợ để phát triển là một cách huy động vốn cho phát triển quen thuộc trên thế giới. Không ở đâu trên thế gian này có thể phát triển mà không vay mượn. Số liệu thống kê cho thấy những nền kinh tế lớn nhất trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… cũng chính là những con nợ kếch sù. Vay nợ không phải là điều đáng lo nhất.
Điều cần bàn trước hết là làm thế nào để chủ động ở mức cao nhất trong nợ công, không phải chạy theo chủ nợ. Muốn vậy, cần phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý thuộc hệ thống công quyền các cấp về gánh nặng nợ nần đè lên vai các thế hệ con cháu mai sau mỗi khi đặt bút đề ra hoặc ký duyệt bất kỳ một yêu cầu vay nợ nước ngoài nào. Và căn bản hơn là làm thế nào để không ngừng nâng cao năng lực quản lý nợ công, nhất là nợ nước ngoài.
Ở cả hai mảng quan trọng này chúng đang phải đối mặt với những bất cập và thách thức rất lớn.
Ý thức về gánh nặng nợ nần
Ngày 1-2 năm nay, tạp chí The Economist cho đăng tải bài viết của Buttonwood nhan đề “The debt crisis – how countries rank” (tạm dịch: Khủng hoảng nợ: thứ bậc của các nước thế nào). Bài viết dựa trên một nguyên lý cơ bản là nợ thì phải trả và nguồn trả nợ chính là từ sự tăng trưởng của quốc gia. Do vậy, bài viết phân tích mối quan hệ giữa mức tăng GDP và lãi phải trả cho các khoản vay nợ. Hiệu số giữa hai đại lượng đó nói lên mức độ nợ nần của các quốc gia. Mặc dầu phương pháp và số liệu mà tác giả sử dụng còn có nhiều ý kiến khác nhau, kết quả tính toán cho thấy Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… là những nước có nguy cơ bị sập bẫy nợ, khủng hoảng nợ lớn nhất. Thực tế những gì đang diễn ra những ngày này ở Hy Lạp đã khẳng định tính toán trên đây của Buttonwood.
Hiện nay, Hy Lạp đang oằn lưng dưới gánh nặng nợ công và nợ nước ngoài lên đến gần 300 tỉ euro và đang bị cuốn vào tâm xoáy của vòng luẩn quẩn: khủng hoảng ” nợ cắt giảm, siết chặt chi tiêu ngân sách “ giảm tăng trưởng “ thất nghiệp “ giảm phát “ gia tăng nợ công “ vỡ nợ. Không thể nói là các nhà hoạch định chính sách vĩ mô của Hy Lạp đã không kịp thời nhận thức được hậu quả thê thảm này khi họ đưa ra các đề nghị vay tiền nước ngoài. Chỉ có thể lý giải sự kiện này bằng một lý do hết sức đơn giản, đó là thói quen vung tay quá trán, mặc kệ tương lai, không cần quan tâm đến gánh nặng nợ nần đè lên vai đất nước.
Còn ở Việt Nam thì sao? Chúng ta đã làm gì để hạn chế hoặc giúp đất nước tránh được cái bẫy nợ nước ngoài?
Năng lực thể chế trong quản lý nợ công
Bài viết này chỉ tập trung đề cập hai tác nhân chính là vai trò của cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước và vai trò của các thành phần xã hội khác trong vấn đề nợ công.
Về thực quyền của Quốc hội và năng lực chuyên môn của các cơ quan của Quốc hội trong việc đáp ứng chức năng, nhiệm vụ to lớn mà Luật Quản lý nợ công đã giao phó là một vấn đề mà cử tri hết sức quan tâm.
Quốc hội, thay mặt nhân dân, thay mặt cử tri cả nước, thẩm tra và quyết định các vấn đề luật định về nợ công sao cho khôn khéo và hiệu quả nhất, trong khi lại quá thiếu cán bộ chuyên môn, thời gian, và đặc biệt là thông tin. Các đại biểu Quốc hội thường chỉ tiếp cận được với thông tin thứ cấp, thông tin tổng hợp, không đủ chi tiết để có thể phân tích đánh giá một cách đầy đủ trong khi việc yêu cầu cung cấp thông tin bổ sung từ các cơ quan hành pháp không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhanh chóng và thuận lợi.
Cử tri có thể đặt câu hỏi: vậy đại biểu Quốc hội dựa vào đâu để bấm nút biểu quyết thông qua các chương trình, dự án cần vay vốn nước ngoài như nhà máy điện nguyên tử ở Ninh Thuận vừa qua hay nay mai là đường sắt cao tốc Bắc – Nam, hay quy hoạch lại thủ đô Hà Nội…? Câu trả lời xin nhường lại cho cơ quan hữu trách. Tuy nhiên có một số giải pháp khả thi mà trên thực tế cũng đã được áp dụng (mặc dù hiệu quả thực tế lại là việc khác).
Chẳng hạn, Quốc hội có thể mời các nhà khoa học trong và ngoài nước có kiến thức và kinh nghiệm về các vấn đề liên quan đến nợ công nghiên cứu, tính toán, cân nhắc và cung cấp thông tin cho các đại biểu Quốc hội giúp họ có thêm luận cứ để đưa ra quyết định.
Một giải pháp khác căn cơ hơn nhưng phải kiên trì thực hiện về lâu dài là nâng cao nhận thức và kỹ năng cho đại biểu dân cử về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Luật Quản lý nợ công thông qua một dự án hỗ trợ kỹ thuật mới hoặc một hợp phần trong hai dự án hiện đang được Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội thực hiện với sự tài trợ của UNDP.
Các cơ quan ngoài nhà nước cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc theo dõi, phản biện các chủ trương, biện pháp, các quyết định về vay và trả nợ và đặc biệt là trong việc giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn vay, nhất là ở cơ sở. Trước hết, đó là các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức quần chúng như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận như Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các tổ chức xã hội dân sự… Ấy vậy mà Luật Quản lý nợ công không có một điều khoản nào quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức ngoài nhà nước trong việc quyết định chủ trương, phương hướng, mục tiêu vay nợ và sử dụng vốn vay, ban hành và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nợ công.
Như vậy là các nỗ lực nhằm tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức đại diện cho nhân dân trong việc giám sát vay nợ công và sử dụng vốn vay đã không được luật hóa và cơ hội tham gia của họ lại một lần nữa (sau Luật Ngân sách Nhà nước 2002) tuột khỏi tầm tay. Đó là một bất cập lớn làm hạn chế năng lực thể chế về nợ công. Chừng nào mà các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước, các nhà khoa học, đại diện các hội đoàn, các tổ chức dân sự chưa có tiếng nói, có vị trí trong Luật Quản lý nợ công thì chừng đó những yêu cầu về quản lý hiệu quả nợ vay của nước ngoài cũng chỉ là mong muốn mà thôi.
Thiếu đại biểu Quốc hội am hiểu về nợ công Trước đây, trong giai đoạn 2003-2008, dự án “Tăng cường năng lực cho Quốc hội và HĐND trong quy trình ngân sách” do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) hỗ trợ. Nhiều cuộc hội thảo, các khóa tập huấn, các chuyến tham quan khảo sát ở nước ngoài về các vấn đề liên quan đến nợ nước ngoài đã được tổ chức cho các đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp tham dự. Tuy vậy, dự án đã gặp phải một số khó khăn sau: 1) Rất ít đại biểu Quốc hội quan tâm tham gia các hoạt động trong nước (mỗi hoạt động chỉ có vài ba đại biểu Quốc hội, ngoài người chủ trì là lãnh đạo của Ủy ban Kinh tế-Ngân sách, sau đó là Ủy ban Tài chính – Ngân sách). Thành phần tham gia chính lại là đại biểu HĐND trong khi họ không phải là đối tượng chính của các hoạt động này vì theo luật định, địa phương không được phép trực tiếp vay vốn nước ngoài mà chỉ có thể vay lại của Chính phủ. Hơn nữa, sau mỗi kỳ bầu cử Quốc hội, phải lặp lại các hoạt động nâng cao năng lực cho số đại biểu mới được bầu trong khi năng lực của Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (thuộc Ban công tác đại biểu của Quốc hội) chưa thể đảm trách việc bồi dưỡng chuyên môn sâu như vậy. 2) Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội chưa có kế hoạch dài hạn nhằm đào tạo chuyên sâu cho chuyên viên của vụ chuyên môn, là cơ quan giúp việc cho ủy ban trong các vấn đề chuyên môn về nợ công nói chung và nợ nước ngoài nói riêng. 3) Hệ thống TABMIS (hệ thống thông tin quản lý về kho bạc và ngân sách nối cơ quan tài chính cấp huyện với Bộ Tài chính trên phạm vi cả nước) không nối mạng với các cơ quan của Quốc hội do vậy họ không có cơ hội được truy cập thông tin trực tuyến mà phải dựa vào nguồn thông tin thứ cấp do cơ quan hành pháp cung cấp. |