Thứ Sáu, 29/03/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Quốc hội xem xét phê chuẩn EVIPA, nhiều cơ hội và thách thức chờ Việt Nam

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Quốc hội xem xét phê chuẩn EVIPA, nhiều cơ hội và thách thức chờ Việt Nam

Vân Ly

(TBKTSG Online) – Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA) giữa một bên là Việt Nam và một bên là Liên minh châu Âu (EU) cùng các nước thành viên đã được Chủ tịch nước trình Quốc hội vào hôm nay, ngày 20-5.

Hiệp định này được cho là động lực thúc đẩy Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi để đẩy mạnh thu hút đầu tư trong một số lĩnh vực mà châu Âu có thế mạnh.

Quốc hội xem xét phê chuẩn EVIPA, nhiều cơ hội và thách thức chờ Việt Nam
Phiên họp Quốc hội ngày 20-5. Ảnh: Quốc hội

EVIPA, nhiều cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Thay mặt Chủ tịch nước trình bày tờ trình đề nghị Quốc hội phê chuẩn EVIPA, Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh cho biết, những nội dung về bảo hộ, tự do hóa đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư đã được đàm phán như một phần của Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU từ năm 2012.

Tuy nhiên, sau đó nội bộ EU phát sinh một số vấn đề mới liên quan đến phân định thẩm quyền phê chuẩn các FTA giữa EU và từng nước thành viên nên EU đề xuất tách Hiệp định Tự do thương mại tự do giữa Việt Nam – EU thành 2 hiệp định riêng biệt gồm: Hiệp định Thương mại tự do – EVFTA quy định các vấn đề thương mại và toàn bộ nội dung về tự do hóa đầu tư trực tiếp đã được hai bên thống nhất trước đây và Hiệp định Bảo hộ đầu tư – EVIPA gồm các quy định bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư.

Hiệp định EVIPA sẽ thay thế 21 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hiện hành giữa Việt Nam và các nước thành viên EU.

Bà Thịnh cho biết, hiệp định đã quy định một số nguyên tắc nhằm bảo đảm để Việt Nam phát triển quan hệ với EU phù hợp với những mục tiêu đã được các bên thỏa thuận theo Hiệp định hợp tác và đối tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA).

Việc thực thi EVIPA sẽ góp phần tăng cường sự gắn kết về kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU. Cùng với EVFTA, hiệp định này sẽ tiếp tục khẳng định vai trò và vị thế địa – chính trị quan trọng của Việt Nam trong Khu vực Đông Nam Á cũng như châu Á – Thái Bình Dương, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN cũng như trên trường quốc tế.

“Việc thực hiện cam kết theo EVIPA sẽ là động lực thúc đẩy Việt Nam tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch hơn đối với nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Việc thực thi hiệp định sẽ tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh thu hút đầu tư trong một số lĩnh vực mà EU có tiềm năng và thế mạnh như: công nghiệp chế biến, chế tạo sử dụng công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ ngân hàng, tài chính”, bà Thịnh nói.

Các quy định của EVIPA được xây dựng chi tiết, có tiêu chí rõ ràng, ghi nhận quyền ban hành và thực hiện chính sách của mỗi bên, giúp hạn chế tối đa khả năng tranh chấp xảy ra. Mặt khác, việc thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp thường trực theo EVIPA để giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư của mỗi bên được đánh giá là bước tiến mới so với cơ chế trọng tài giải quyết tranh chấp theo từng vụ việc, mà Việt Nam đã áp dụng theo 66 hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký kết trong gần 30 năm qua.

Cơ chế thường trực sẽ loại bỏ sự can thiệp của nhà đầu tư vào việc lựa chọn thành viên cơ quan giải quyết tranh chấp, hạn chế xung đột lợi ích, nâng cao yêu cầu về chuyên môn và tính độc lập của các thành viên này. Mặt khác, quy trình giải quyết tranh chấp theo hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) của cơ chế này sẽ góp phần giảm rủi ro, nâng cao tính nhất quán của quá trình giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên theo bà Thịnh, bên cạnh những tác động tích cực, việc thực hiện cơ chế giải quyết tranh chấp theo EVIPA cũng đặt ra những thách thức lớn hơn. Đòi hỏi Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ, công bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử, đúng trình tự thủ tục nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh với nhà đầu tư nước ngoài và giải quyết có hiệu quả những tranh chấp này. Đồng thời cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế cảnh báo sớm để phòng ngừa tranh chấp.

EVFTA sẽ đưa kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 42,7% vào năm 2025

Sau phần trình bày của bà Thịnh, ông Nguyễn Văn Giàu, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã trình bày Báo cáo thẩm tra của Quốc hội về việc phê chuẩn hiệp định trên.

Ông Giàu cho biết, theo báo cáo thuyết minh của Chính phủ, hiệp định sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 đến 3,25% (cho giai đoạn 5 năm đầu thực hiện), 4,57-5,30% (cho giai đoạn 5 năm tiếp theo) và 7,07-7,72% (cho giai đoạn 5 năm sau đó).

EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới và hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Mỹ). Thông qua hiệp định này, Việt Nam có thể tiếp cận một thị trường tiềm năng với dân số hơn 500 triệu người, GDP khoảng 15.000 tỉ đô la Mỹ chiếm 22% GDP toàn cầu.

Về trao đổi thương mại, Việt Nam và EU chủ yếu mang tính bổ trợ thay vì cạnh tranh lẫn nhau. Với những cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ, EVFTA dự kiến sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030.

Về nhập khẩu, dự kiến nhập khẩu từ EU sẽ tăng khoảng 33,06% vào năm 2025 và 36,7% vào năm 2030, tập trung vào một số mặt hàng như phương tiện và thiết bị vận tải, máy móc thiết bị phụ tùng, điện thoại và linh kiện điện tử, dược phẩm. EVFTA giúp đa dạng hóa thị trường nước ta để không bị phụ thuộc vào sự giới hạn một số thị trường, đồng thời có sự tác dụng là đòn bẩy kích thích các đối tác khác tăng cường quan hệ thương mại – đầu tư với Việt Nam.

Về đầu tư, EVFTA là cơ hội để Việt Nam có thể thu hút thêm các nhà đầu tư từ EU trong các lĩnh vực như công nghiệp chế biến chế tạo sử dụng công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, dịch vụ. Về lao động, EVFTA dự kiến giúp tăng thêm khoảng 146.000 việc làm mỗi năm. Về thu ngân sách, dự kiến tổng mức giảm thu từ giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên 2.500 tỉ đồng. Tuy nhiên tăng thu từ thu nội địa dưới tác động của đầu tư, thương mại và tăng trưởng kinh tế khoảng 7.000 tỉ đồng trong giai đoạn 2020-2030.

Theo báo cáo thuyết minh của Chính phủ, đi cùng với những lợi ích, EVFTA cũng có một số thách thức sau: EVFTA tạo ra sức ép cạnh tranh từ hàng hóa và dịch vụ từ EU cho doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam; EVFTA bao gồm những quy định, quy tắc chặt chẽ về thủ tục đầu tư, hải quan, thuận lợi thương mại, các rào cản kỹ thuật trong thương mại, các biện pháp kiểm dịch động thực vật, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững.

Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và thực hiện mạnh mẽ, hiệu quả chủ trương cải cách thủ tục hành chính.

“Một số ý kiến cho rằng, ngoài báo cáo đánh giá tác động của hiệp định được Chính phủ tiến hành vào cuối năm 2019, đề nghị Chính phủ đánh giá thêm tác động của hiệp định sau đại dịch Covid-19. Đặc biệt là các khó khăn thách thức do đại dịch ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa xã hội, nhất là tăng trưởng GDP, thu ngân sách, cơ cấu ngành, thu hẹp thị trường, giảm việc làm. Chính phủ cần cập nhật và đánh giá cụ thể hơn tác động tích cực và tiêu cực của hiệp định đến các ngành, lĩnh vực để có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tận dụng tốt các cơ hội và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực”, ông Giàu nói.

Căn cứ tờ trình của Chủ tịch nước, báo cáo thuyết minh của Chính phủ và các ý kiến thẩm tra, ông Giàu cho biết Ủy ban Đối ngoại xin kiến nghị Quốc hội xem xét, phê chuẩn Hiệp định EVFTA.

Những cam kết trong EVFTA

Tại Quốc hội, ông Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công Thương thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày báo cáo thuyết minh về hiệp định trên.

Theo ông Trần Tuấn Anh, hiệp định điều chỉnh nhiều vấn đề bao gồm: thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp Nhà nước, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý – thể chế.

“Với mức độ cam kết đạt được, EVFTA được coi là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng như đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên”, ông Trần Tuấn Anh nói.

Cắt giảm thuế nhập khẩu theo EVFTA được chia thành các nhóm sau: nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay – nhóm hàng hóa mà thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ ngay khi EVFTA có hiệu lực; nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình; nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan; nhóm hàng hóa không cam kết.

Về cam kết của EU đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, EU cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

“Đối với một số ít mặt hàng còn lại (tương đương khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu), EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan (TRQ) với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Như vậy, gần như 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn”, ông Tuấn Anh nói.

Đối với các nhóm hàng quan trọng, ông Tuấn Anh cho biết, EU cam kết trong vòng 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu của ta, 22,7% kim ngạch còn lại sẽ được xóa bỏ sau 7 năm. Cam kết này của EU được đưa ra phù hợp với khả năng đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ “2 công đoạn” của ngành dệt may Việt Nam (tức là để được hưởng thuế quan ưu đãi theo EVFTA thì hàng dệt may của Việt Nam phải được làm từ vải có xuất xứ Việt Nam).

Ngoài ra, EU cũng chấp nhận linh hoạt với quy tắc này như cộng gộp xuất xứ từ Hàn Quốc. Đồng thời, EU sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 86,5% kim ngạch xuất khẩu của ta trong vòng 3 năm; 90,3% trong vòng 5 năm và 100% trong vòng 7 năm. Đối với cá ngừ đóng hộp, EU dành cho ta hạn ngạch thuế quan là 11.500 tấn. Đối với cá viên, EU dành cho ta hạn ngạch thuế quan là 500 tấn.

Bên cạnh đó, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo. Đặc biệt, EU sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm (giúp ta có thể xuất khẩu ước khoảng 100.000 tấn vào EU hàng năm). Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế suất về 0% sau 3 đến 5 năm.

Đối với mặt hàng mật ong, EU sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và không áp dụng hạn ngạch thuế quan. Gần như toàn bộ các sản phẩm rau quả tươi, rau củ quả chế biến, cà phê, hạt tiêu, túi xách, va li, sản phẩm nhựa, sản phẩm gốm sứ thủy tinh về cơ bản sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực.

Về cam kết của Việt Nam đối với hàng xuất khẩu của EU, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế (chiếm 64,5% kim ngạch nhập khẩu từ EU). Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu.

Sau 10 năm, mức xóa bỏ thuế quan là khoảng 98,3% số dòng thuế (chiếm 99,8% kim ngạch nhập khẩu). Đối với khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU, Việt Nam áp dụng lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng TRQ theo cam kết WTO hoặc không cam kết. Phương thức quản lý và các điều khoản và điều kiện khác liên quan đến việc phân bổ hạn ngạch thuế quan của Việt Nam được áp dụng tương tự như cam kết trong WTO.

Về thuế xuất khẩu, Việt Nam và EU cam kết không đánh thuế xuất khẩu đối với hàng hóa khi xuất khẩu từ lãnh thổ một bên sang bên kia. Lý do của cam kết cắt giảm thuế xuất khẩu là nhiều nước trên thế giới coi việc đánh thuế xuất khẩu là một hình thức trợ cấp gián tiếp gây ra cạnh tranh không lành mạnh giữa hàng hóa của các nước.

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới