Thứ Sáu, 29/03/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Rất nhiều doanh nghiệp FDI báo lỗ: Không thể nói khơi khơi mà phải phân tích

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Rất nhiều doanh nghiệp FDI báo lỗ: Không thể nói khơi khơi mà phải phân tích

Phan Minh Ngọc

(TBKTSG) – Một nghịch lý đã diễn ra từ nhiều năm qua là nhiều doanh nghiệp FDI ở Việt Nam triền miên báo lỗ dù không ngừng tăng vốn, mở rộng sản xuất, kinh doanh và doanh thu tăng qua các năm. Đây là hiện tượng cần phải được phân tích một cách thỏa đáng, khoa học và có căn cứ hơn để tìm ra nguyên nhân đích thực, chứ không thể nói khơi khơi.

Rất nhiều doanh nghiệp FDI báo lỗ: Không thể nói khơi khơi mà phải phân tích
Sản xuất tại một doanh nghiệp có vốn FDI. Ảnh: HÙNG LÊ

Tỷ lệ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) báo lỗ rất cao, thường trên 50%, cụ thể như năm 2019 là 55%, dù tổng doanh thu của số doanh nghiệp này vẫn tăng, theo báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI năm 2019 của Bộ Tài chính.

Ngoài ra, cũng trong báo cáo trên, Bộ Tài chính chỉ đích danh một số doanh nghiệp FDI lớn có doanh thu tăng nhưng đóng góp cho ngân sách lại giảm đi, “chưa tương xứng với những ưu đãi (đất đai, thuế…) dành cho những doanh nghiệp lớn này”.

Có lẽ Bộ Tài chính cần công bố song song, và/hoặc so sánh tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước.

Nếu tỷ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong nước nhỏ hơn nhiều và/hoặc có xu hướng giảm thì chuyện thua lỗ của doanh nghiệp FDI mới là điều đáng nói, và ngược lại.

Những tin tức như vậy thường ngay lập tức làm nóng dư luận, dấy lên nghi ngờ rằng chuyện đóng góp cho ngân sách giảm và khai báo lỗ này là kết quả của hành vi chuyển giá gian lận để trốn thuế, và cùng với đó sẽ là những kiến nghị rằng Nhà nước cần tiến hành thanh tra, kiểm tra để phát hiện và xử phạt các hành vi chuyển giá bất hợp pháp, nếu có, trong số các doanh nghiệp FDI báo lỗ này.

Điều đáng nói là tuy nghi ngờ như vậy nhưng đã không có nhiều vụ việc chuyển giá gian lận được các cơ quan chức năng Việt Nam phát giác và kết luận qua công tác thanh tra, giám sát các doanh nghiệp trong diện nghi ngờ trong nhiều năm qua.

Một mặt, thực tế “đáng tiếc” này hoàn toàn không có nghĩa là có thể kết luận rằng không nhiều doanh nghiệp FDI gian lận và trốn được thuế ở Việt Nam. Nhưng mặt khác, nó cũng cho thấy, thậm chí sẽ là phản tác dụng nếu cứ nói khơi khơi, mang tính quy kết như là bản chất, mà “không vạch mặt chỉ tên” được những doanh nghiệp FDI đã trốn thuế nhờ chuyển giá gian lận để minh họa.

Chí ít thì sự quy kết mà không có căn cứ rõ ràng có thể làm xói mòn lòng tin vào môi trường đầu tư ở Việt Nam, cũng như gia tăng sự bài trừ, chống đối của một bộ phận công luận vào dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam như đã và đang được chứng kiến.

Ví dụ như, trong khi chỉ có một số ít doanh nghiệp FDI bị kết luận là có hành vi gian lận chuyển giá, thì có đến hàng trăm doanh nghiệp trong nước, chỉ riêng ở Hà Nội, đã bị kết luận như vậy(1), cho thấy đang tồn tại thành kiến về doanh nghiệp FDI, đại loại như trốn thuế và gian lận chuyển giá là thuộc tính riêng và xu hướng của doanh nghiệp FDI.

Quay lại với báo cáo trên, để việc công bố những con số về doanh thu, lỗ lãi của doanh nghiệp FDI trở nên có ý nghĩa hơn, có lẽ Bộ Tài chính cần công bố song song, và/hoặc so sánh tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước. Nếu tỷ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong nước nhỏ hơn nhiều và/hoặc có xu hướng giảm thì chuyện thua lỗ của doanh nghiệp FDI mới là điều đáng nói, và ngược lại.

Rõ ràng là hệ thống pháp luật liên quan đã chặt chẽ, đầy đủ hơn, và năng lực thanh tra cũng như sự phối hợp quốc tế trong lĩnh vực phòng chống gian lận chuyển giá đã được cải thiện liên tục trong những năm qua.

Thế nên, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ cao (và tăng lên) càng cần phải được phân tích một cách thỏa đáng, khoa học và có căn cứ hơn để tìm ra nguyên nhân đích thực, từ đó đề ra những giải pháp xử lý xác đáng và hữu hiệu.

Hơn nữa, việc Bộ Tài chính kết luận rằng đóng góp cho ngân sách của một số doanh nghiệp FDI lớn, cụ thể như Formosa Hà Tĩnh, “chưa tương xứng với những ưu đãi mà các doanh nghiệp này được hưởng” là chưa hoàn toàn thỏa đáng.

Bởi, các doanh nghiệp này rất có thể sẽ lập luận rằng đóng góp của họ cho nền kinh tế Việt Nam không chỉ được nhìn qua con số nộp ngân sách mà còn dưới các hình thức khác như tạo công ăn việc làm cho người địa phương, tạo ra các liên kết với và đem đến doanh thu cho các doanh nghiệp nội địa…

Thực tế là ngay trong báo cáo thẩm định và phê duyệt đầu tư của các cơ quan chức năng bao giờ cũng đề cập đến các hiệu quả tích cực này của doanh nghiệp FDI, mà không hiếm khi họ dùng chính những hiệu quả này để vận động chấp thuận dự án trước sự phản đối của dư luận vì những lo ngại như ô nhiễm môi trường.

Nên nếu giờ mà nói rằng các doanh nghiệp lớn này không đóng góp tương xứng với những gì họ được ưu đãi thì cũng có nghĩa là đã thừa nhận sai lầm khi ủng hộ và phê duyệt dự án đầu tư của họ.

Những con số không tích cực về doanh nghiệp FDI nêu trên còn đặt ra câu hỏi về năng lực của các cơ quan hữu quan. Cần lưu ý rằng, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ trong nhiều năm qua vẫn đứng ở mức lớn, thậm chí tăng lên. Ví dụ, năm 2017 tỷ lệ này là 52%, cao nhất trong giai đoạn 2012-2017 với tỷ lệ tương ứng từ 44-52%(2).

Nếu hiện tượng doanh nghiệp FDI thua lỗ được gắn với hành vi trốn thuế, gian lận chuyển giá thì sự tăng lên của tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ cho thấy các nỗ lực xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật trong suốt hơn thập kỷ qua không có hiệu quả và tác dụng, đồng thời cho thấy sự yếu kém trong thực thi các biện pháp phòng chống gian lận chuyển giá của các cơ quan chức năng.

Hiển nhiên rằng sự suy diễn này là không thỏa đáng, vì rõ ràng là hệ thống pháp luật liên quan đã chặt chẽ, đầy đủ hơn, và năng lực thanh tra cũng như sự phối hợp quốc tế trong lĩnh vực phòng chống gian lận chuyển giá đã được cải thiện liên tục trong những năm qua.

Thế nên, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ cao (và tăng lên) càng cần phải được phân tích một cách thỏa đáng, khoa học và có căn cứ hơn để tìm ra nguyên nhân đích thực, từ đó đề ra những giải pháp xử lý xác đáng và hữu hiệu, cũng như cách đang làm với khu vực doanh nghiệp nhà nước.

Nói cách khác, nếu muốn thực hiện thì Bộ Tài chính cần tổng kết tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp FDI đặt trong bối cảnh chung của toàn bộ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, để tránh gửi đi một thông điệp có thể bị hiểu nhầm là mang tính phân biệt, thành kiến.

(1) http://thanglong.chinhphu.vn/thanh-tra-chong-chuyen-gia-giai-phap-ngan-chan-tron-thue

(2) https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/mtttc/r/m/ptitutsuk/phodonttsk_chitiet?dDocName=MOFUCM147859&dID=154127&_afrLoop=3192203822257981#%40%3F_afrLoop%3D3192203822257981%26dDocName%3DMOFUCM147859%26dID%3D154127%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dgxnrxzkpm_46

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới