Thứ Năm, 25/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Sẽ hoàn thành 5.000 km đường cao tốc đến năm 2030

Vân Ly

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) – Báo cáo trước Quốc hội chiều 9-6, Phó thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành cho biết, Chính phủ sẽ quyết tâm hoàn thành 3.000 km đường cao tốc đến năm 2025, 5.000 km đường cao tốc đến năm 2030.

Một đoạn đường cao tốc. Ảnh minh họa: TTXVN

Về các danh mục triển khai đường cao tốc trong giai đoạn 2021-2025, Phó thủ tướng cho biết sẽ tập trung vào các dự án lớn: tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 có chiều dài là 654 km; tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 có chiều dài 729 km. Chính phủ đã trình Quốc hội tại kỳ họp này 5 tuyến cao tốc có chiều dài 549 km. Như vậy, tổng chiều dài toàn bộ các tuyến cao tốc đang triển khai là 1.932 km. Số đường cao tốc đã hoàn thành tới thời điểm hiện nay là 1.290 km. Như vậy, tính cả các công trình đã hoàn thành đưa vào khai thác và các công trình đang triển khai là tổng cộng 3.222 km cao tốc.

Về tiến độ triển khai cụ thể các dự án, tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 đã được Quốc hội phê chuẩn chủ trương đầu tư năm 2017 với chiều dài 654 km, đã khởi công rải rác trong 3 năm 2019, 2020 và 2021, sẽ hoàn thành toàn tuyến vào năm 2023.

Tuyến cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 với chiều dài 729 km được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường tháng 1-2022. Hiện đã triển khai lập dự án đầu tư, kiểm đếm, cắm mốc chỉ giới, lập phương án đền bù, toàn bộ 729 km sẽ khởi công vào năm 2022, phấn đấu hoàn thành vào năm 2025, thông toàn bộ tuyến cao tốc Bắc Nam vào năm 2025 với tổng chiều dài là 2.063 km từ Lạng Sơn đến Cà Mau.

“Các tuyến còn lại, tuyến Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng, tuyến Biên Hòa – Vũng Tàu, tuyến Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột dự kiến khởi công tháng 6 năm 2023 nếu được Quốc hội thông qua tại kỳ họp này, cơ bản hoàn thành vào năm 2025 và đưa vào khai thác, sử dụng năm 2026”, ông Thành nói.

Đường vành đai 3 TPHCM và đường vành đai 4 vùng thủ đô sẽ khởi công vào tháng 6-2023 và cơ bản hoàn thành vào năm 2026.

Phó thủ tướng cho biết, Chính phủ sẽ quyết tâm hoàn thành 3.000 km đường cao tốc đến năm 2025, 5.000 km đường cao tốc đến năm 2030.

Trước đó, trả lời chất vấn trước Quốc hội liên quan đến việc triển khai thực hiện các tuyến đường cao tốc đang còn mất cân đối giữa các vùng, miền, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể cho biết các bộ, ngành, địa phương liên quan đang tập trung triển khai các dự án, công trình giao thông trọng điểm. Tuy nhiên, ông Thể cũng thừa nhận trong danh sách bổ sung các tuyến cao tốc vào quy hoạch này, khu vực phía Bắc vẫn được ưu tiên với chiều dài chiếm gần 2/3, còn lại là khu vực phía Nam và miền Trung, Tây nguyên.

Để khắc phục tình tình trạng “lệch pha” trong đầu tư cao tốc hiện nay, bộ trưởng cho biết vừa qua một số tuyến cao tốc phía Nam đã được phê duyệt. Mạng lưới đường bộ cao tốc trong quy hoạch đã được đánh giá, cân đối về điều kiện khu vực, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế giữa các vùng, miền. Hy vọng rằng với các quy hoạch điều chỉnh thì mạng lưới đường bộ cao tốc tại khu vực miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ hoàn thiện hơn, nâng cao tính hấp dẫn khi thu hút đầu tư các tỉnh, thành trong khu vực…

Trả lời câu hỏi liên quan đến cơ cấu hệ thống giao thông miền núi phía Bắc, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể cho biết đây là khu vực có hạ tầng giao thông còn nhiều yếu kém. Do đó, Chính phủ đã cố gắng đầu tư được một số dự án như đoạn Hòa Bình – Mộc Châu; từ Mộc Châu lên Sơn La và Điện Biên; cao tốc Hà Giang – Phú Thọ; cao tốc Chợ Mới – Thái Nguyên; cao tốc Đồng Đăng – Trà Lĩnh; cao tốc kết nối quốc lộ 18 xuống Móng Cái…, dù không phải là dự án trọng điểm quốc gia nhưng có trong kế hoạch thực hiện của nhiệm kỳ này bằng nhiều nguồn vốn.

Liên quan đến đường vành đai biên giới kết nối các tỉnh miền núi phía Bắc cùng với các trục hướng tâm, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cũng cho hay vừa qua đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng. Tuy nhiên, do nguồn lực có hạn nên việc mở rộng theo khả năng. Bộ sẽ giao cho Tổng cục Đường bộ phối hợp với địa phương nghiên cứu, lập danh sách nghiên cứu và chuẩn bị cho nhiệm kỳ 2026- 2030.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới