Thứ Bảy, 1/04/2023, 02:00
28 C
Ho Chi Minh City

Đặt báo in

Thông tin quảng cáo

Thông tin quảng cáo


Sử dụng vốn nhà nước chưa hiệu quả

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Sử dụng vốn nhà nước chưa hiệu quả

Cầu Thủ Thiêm (TPHCM) là một trong những dự án mà vốn cho giải phóng mặt bằng bằng vốn cho xây lắp – Ảnh: Kinh Luân

(TBKTSG Online) – Cuối tuần trước, đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có báo cáo đánh giá kết quả sử dụng vốn nhà nước, và từ báo cáo cho thấy hiệu quả của đồng vốn này vẫn chưa được chú trọng.

Vốn dàn trải

Theo báo cáo của đoàn, từ năm 2005 đến 2007, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách là 237.447 tỉ đồng, trong đó vốn ngân sách do địa phương quản lý là 151.774 tỉ và các bộ, ngành trung ương quản lý là 85.673 tỉ đồng, chiếm khoảng 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Số vốn trái phiếu Chính phủ đã được giải ngân ở các địa phương là 757,85 tỉ đồng, vốn ODA đã được giải ngân là 4.876 tỉ đồng. Tổng số vốn tính đến tháng 6-2008 do nhà nước bảo lãnh là 5.820 triệu đô la Mỹ.

Với nguồn vốn đầu tư đa dạng như thế, nhưng theo nhận xét đoàn giám sát, quyết định đầu tư chủ yếu vẫn chạy theo số lượng mà chưa tính đến khả năng bố trí nguồn vốn, chưa chú trọng đúng mức đến hiệu quả đầu tư.

Tại các tỉnh, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản đều rất lớn vì cơ sở hạ tầng của địa phương thiếu và yếu nên dù có ưu tiên đầu tư theo thứ tự nhưng thực tế vẫn dàn trải hoặc sai sót trong quyết định đầu tư. Cụ thể là đầu tư sai mục đích, vượt thẩm quyền, không phù hợp gây thất thoát, lãng phí… mà bài học về “đại công trường” ở tỉnh Hà Giang những năm trước đây còn để lại hậu quả tới giờ về việc đầu tư ồ ạt và thất thoát, lãng phí.

Có những địa phương, kế hoạch bố trí vốn chỉ đáp ứng được 1/3 đến một nửa dự toán được duyệt nên kéo dài thời gian đầu tư. Ví dụ đề án nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa khu vực giai đoạn 2005-2008 do Bộ Y tế trình với tổng vốn đầu tư là 8.350 tỉ đồng, ngân sách trung ương mới cấp 1.202 tỉ trong số 3.920 tỉ đồng, bằng 30,6%. Các địa phương phải bố trí khoảng 1.000 tỉ đồng/năm nhưng thực tế chỉ được khoảng 200-300 tỉ đồng, như vậy chắc chắn không thể hoàn thành mục tiêu của đề án năm 2008.

Có những dự án, công trình đã được cấp có thẩm quyền ở trung ương phê duyệt từ hơn 10 năm nhưng chưa bố trí được nguồn vốn hoặc thực hiện rất dở dang như dự án đập thủy lợi Tà Pao (Bình Thuận), quốc lộ 70 Phú Thọ-Lào Cai.

Đoàn giám sát bổ sung thêm rằng, việc phân giao và tốc độ giải ngân các nguồn vốn nhìn chung chậm, đặc biệt là vốn trái phiếu Chính phủ. Ở địa phương, vốn này mới chỉ giải ngân được 30% so với kế hoạch trong 3 năm (2005-2007). Hậu quả của nó là việc nợ đọng còn rất lớn. Tổng số nợ xây dựng cơ bản nguồn ngân sách nhà nước từ các công trình đã hoàn thành do địa phương quản lý tính đến tháng 6-2008 là 3.860 tỉ đồng. ·

Thủ tục, quy định làm tốn nhiều tiền nhà nước  

Một trong những nguyên nhân khiến cho đồng vốn nhà nước đang tắc ở các dự án, các địa phương lại xuất phát chính từ các quy định của người cấp vốn (nhà nước).

Thậm chí, nhiều quy định đang tồn tại còn làm cho đồng vốn đầu tư liên tục bị điều chỉnh và gia tăng, kéo theo việc phải điều chỉnh tổng dự toán của công trình.

Đoàn giám sát có đưa ra một ví dụ về quy trình thủ tục đấu thầu chiếm nhiều thời gian hoặc việc chỉ định thầu cũng rắc rối không kém. Như trường hợp dự án Nhà máy đạm Cà Mau, nếu được chỉ định thầu sẽ chọn được nhà thầu với tổng mức vốn đầu tư 500 triệu đô la Mỹ với thiết bị công nghệ cao. Tuy nhiên, quyết định đấu thầu đã khiến thời gian hoàn thành dự án chậm 2 năm, mức vốn đầu tư tăng lên 900 triệu đô la Mỹ nhưng công nghệ thấp.

Hoặc quy định áp dụng chỉ định thầu đối với gói thầu dịch vụ tư vấn có giá trị dưới 500 triệu đồng và gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp có giá trị dưới 1 tỉ đồng là thấp so với thực tế vì giá cả biến động quá nhanh, quy định cứng sẽ không phù hợp.

Hơn nữa, có những nghị định của Chính phủ mâu thuẫn lẫn nhau, như một nghị định quy định điều chỉnh dự án trong trường hợp biến động bất thường của giá nguyên vật liệu nhưng lại có nghị định khác không quy định về việc điều chỉnh tổng mức đầu tư trong trường hợp có biến động bất thường về giá nguyên vật liệu nên làm chủ đầu tư lúng túng.

Các chủ đầu tư hiện nay vẫn sợ nhất công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và nút thắt nhiều năm này đã khiến cho nhiều dự án đội giá lên thấy rõ. Nguyên nhân lớn nhất của nó là do cơ chế chính sách không phù hợp, thiếu nhất quán giữa các loại dự án, giữa các địa phương và giữa các thời điểm thực hiện, gây nhiều khó khăn cho quá trình triển khai, làm thất thoát và lãng phí.

Một ban quản lý dự án thuộc Bộ Giao thông vận tải nói với đoàn giám sát rằng, để làm được thủ tục đền bù giải phóng mặt bằng một dự án cần hơn 40 loại văn bản, công văn, giấy tờ. Hoặc do cơ chế, giá trị đền bù giải phóng mặt bằng của một số công trình còn lớn hơn giá trị xây lắp, ví dụ như đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (TPHCM) trị giá xây lắp là 68 tỉ đồng, tiền đền bù giải phóng mặt bằng là 654 tỉ đồng; hay cầu Thủ Thiêm trị giá xây lắp là 573 tỉ đồng, trị giá đền bù cộng thêm khoảng 100% nữa (576,91 tỉ đồng).      

Dù chỉ ra rất nhiều bất cập trong việc thực hiện việc cấp vốn, sử dụng vốn và chấp hành các quy định về dùng đồng vốn trong công tác xây dựng cơ bản ở các địa phương, các bộ, ngành nhưng đoàn giám sát Ủy ban thường vụ Quốc hội thừa nhận là vấn đề lớn và phức tạp này mới có hai lần thực hiện giám sát (năm 2004 và năm 2008), chưa thể tìm ra một hướng thật đầy đủ nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém. Do vậy, trước mắt cách tốt nhất là tăng cường giám sát để hạn chế những bất cập về cơ chế, thất thoát về đầu tư và đẩy nhanh việc đưa vào sử dụng hiệu quả các dự án từ đồng vốn nhà nước.

NGỌC LAN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới