Suy ngẫm về chuyện làm giá
Khách hàng xem thông tin về lãi suất ở VIB Bank -Ảnh: LÊ TOÀN |
(TBKTSG) – Gần đây chuyện trần lãi suất do Hiệp hội Ngân hàng (HHNH) Việt Nam thỏa thuận làm người ta liên tưởng đến vai trò của OPEC trong việc để giá dầu tăng quá nhanh và các nước trong tổ chức này đang thu được nhiều tiền hơn trong khi phần còn lại của thế giới phải thắt lưng buộc bụng.
Chuyện OPEC và lợi nhuận
OPEC được thành lập từ năm 1960 bởi Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Saudi và Venezuela. Hiện tại, tổ chức này còn có thêm chín quốc gia nữa để tạo thành một liên minh độc quyền (được phương Tây gọi là cartel) đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định giá dầu thô trên thế giới. Về một khía cạnh nào đó, nhiều nhà kinh tế học ví vai trò của OPEC là định ra giá cả (price setting) trong khi đa phần chính phủ và người dân các quốc gia còn lại là người phải chấp nhận giá (price-takers) trên thị trường dầu. Và vì thế, có người ví von rằng OPEC đã bằng nhiều cách rút bớt sự giàu có của các nước phát triển (và cả đang phát triển) về cho mình.
Lợi nhuận từ dầu hỏa của OPEC trong thời gian gần đây đã được một số nhà phân tích hé lộ: nếu như giá dầu giữ ở mức trên 100 đô la Mỹ/thùng thì chỉ trong vòng sáu ngày OPEC sẽ kiếm đủ tiền để mua lại tập đoàn General Motors khổng lồ của Mỹ, và chỉ trong ba năm sẽ đủ tiền để mua 20% của tất cả các công ty nằm trong danh sách S&P 500.
Theo cơ quan năng lượng của Mỹ, các nước OPEC kiếm được doanh số khoảng 675 tỉ đô la Mỹ trong năm 2007 và dự kiến khoảng 863 tỉ đô la Mỹ trong năm 2008, một khoản doanh thu tăng lên quá lớn trong khi cả thế giới đang phải đương đầu với đói nghèo (khủng hoảng lương thực), lạm phát và khủng hoảng tài chính. Thậm chí, một số phân tích còn chỉ trích là ngay cả trong trường hợp giá dầu chỉ còn 50 đô la Mỹ/thùng thì các nước này vẫn kiếm được rất nhiều tiền.
Trong thời gian gần đây, mặc các nỗ lực của Mỹ, các nước OPEC vẫn không có ý định gia tăng sản lượng dầu cho dù giá dầu vẫn đang ở mức cao, và nhiều lãnh đạo OPEC còn tuyên bố rằng họ hoàn toàn có khả năng kiểm soát sao cho giá dầu ở trên 80 đô la Mỹ/thùng. Đây dường như là một gáo nước lạnh dội vào lời kêu gọi của nhiều người dân đối với các công ty xăng dầu lớn là “trong khi chúng tôi đang cố gắng cắt giảm nhu cầu sử dụng của mình và sống khó khăn hơn, các anh không thể cắt giảm lợi nhuận được chút nào hay sao?”. Những lời kêu gọi kiểu này phát đi trên khá nhiều phương tiện truyền thông lớn của các nước phương Tây, và nhằm vào các tập đoàn xăng dầu lớn, nhưng dường như đã bỏ quên vai trò của người đứng đằng sau tấm màn giá xăng dầu cao: tổ chức độc quyền định giá OPEC, người cố tình điều khiển giá dầu theo mong muốn của mình để thu lợi nhuận cao cho cả một khu vực sản xuất xăng dầu.
Chuyện lợi nhuận ngân hàng và trần lãi suất
Câu chuyện của OPEC làm người viết liên tưởng đến chuyện trần lãi suất của Việt Nam. Gần đây, HHNH Việt Nam đã họp và đạt được sự đồng thuận của các thành viên về việc giảm lãi suất huy động xuống 11%/năm. Trong khi đó, HHNH Việt Nam không đạt được sự đồng thuận về kiểm soát lãi suất cho vay (mà hình như cũng không muốn làm vậy).
Lý luận chính được đưa ra để kiểm soát trần lãi suất huy động là để hạn chế việc cạnh tranh giữa các ngân hàng dẫn đến việc người gửi tiền cứ rút tiền ngân hàng này mang qua ngân hàng khác gửi, vốn chạy vòng vèo trong hệ thống ngân hàng mà số dư tiền gửi không tăng bao nhiêu. Lý luận này cũng có cái lý của nó vì làm giảm chi phí xã hội do cạnh tranh ngân hàng gây ra.
Tuy nhiên, nếu đã đặt trần lãi suất huy động mà không đặt trần lãi suất cho vay thì lại không có một lý luận hợp lý. Lại có ý kiến cho rằng nhiều ngân hàng “sống” nhờ tín dụng nên nếu siết lãi suất cho vay thì cắt đường sống của ngân hàng ấy, mặt khác năng lực của các ngân hàng khác nhau. Nhưng nếu đã bảo năng lực của ngân hàng khác nhau thì phải cạnh tranh theo năng lực chứ sao lại cào bằng lãi suất đầu vào như vậy? Đã cào bằng một bên mà không cào bằng bên kia, dù lý luận kiểu gì dựa trên sự khác biệt của các ngân hàng cũng là lỗi logic nghiêm trọng cả.
Có vẻ như lý luận về chuyện “đường sống” của nhiều ngân hàng dựa trên tín dụng đã hé mở câu trả lời vì sao không đặt trần lãi suất cho vay mà thỏa thuận trần lãi suất huy động. Đó có phải vì lợi ích của một nhóm lợi ích, mà cụ thể là những ngân hàng chỉ sống nhờ tín dụng chăng? Là vì cứu những ngân hàng như thế (hay cứu cả hệ thống ngân hàng thương mại) trước áp lực lợi nhuận 2008 sau những đợt tăng vốn ồ ạt các năm trước nên phải tìm cách mượn thế Công điện 02 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mà tạo lập một quyền lực tạo giá (ở đây là lãi suất) trên thị trường và buộc người gửi tiền trở thành người chấp nhận giá bất đắc dĩ?
Người gửi tiền hoàn toàn không có quyền lực gì trong việc thương thảo với ngân hàng về giá cả và cũng không thể bỏ đi (trong bối cảnh chứng khoán xuống, bất động sản giảm, vàng, đô la Mỹ “phập phù”). Và vì vậy, người gửi tiền sẽ nhận lãi suất thấp hơn, ngân hàng thì duy trì được lãi suất đầu vào thấp và lãi suất đầu ra vẫn cao, kết quả là cứu vãn tình hình lợi nhuận của mình để đối phó với áp lực lợi nhuận 2008. Những tín hiệu lợi nhuận vẫn khả quan của vài ngân hàng gần đây liệu có phải là một tín hiệu báo trước về những lợi ích mà những đồng thuận kiểu đặt trần lãi suất này đã đem lại cho ngành ngân hàng?
Việc NHNN im lặng trước các sự kiện này cũng đã gây không ít thắc mắc trong dư luận.
Dáng dấp liên minh độc quyền quyết định giá cả kinh điển của kinh tế học đang xuất hiện. Nó giống như giai đoạn ban đầu của OPEC. Tuy nhiên, cũng như giai đoạn ban đầu của OPEC, các thành viên không tuân thủ thỏa thuận và sức mạnh của khối không đủ lớn để chống lại áp lực nên liên minh giá này không mấy thành công.
Trường hợp ở Việt Nam cũng tương tự, liên minh lập lãi suất ngân hàng lần này đã không duy trì trần lãi suất được lâu do áp lực mới từ chính phủ và hành vi xé rào của thành viên. Nhưng mối lo ngại đặt ra là nếu quyền lực của các hiệp hội mà lớn mạnh lên như OPEC ngày hôm nay, thì lúc đó liệu sẽ có chuyện người gửi tiền và người đi vay sẽ phải kêu than ngành ngân hàng có thể cắt giảm một chút lợi nhuận để chia sẻ với sự khó khăn của người dân và doanh nghiệp trước cơn bão giá chăng?
HỒ QUỐC TUẤN, Thạc sĩ Tài chính Đại học Melbourne