Thứ Sáu, 29/03/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Tăng trưởng kinh tế nhờ vào FDI – đằng sau những con số

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Tăng trưởng kinh tế nhờ vào FDI – đằng sau những con số

PGS.TS. Trương Quang Thông (*)

(TBKTSG) – Vai trò thực tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự tăng trưởng thường xuyên, đặc biệt dưới góc độ chất lượng, của kinh tế Việt Nam như thế nào?

Chúng ta không thể phủ nhận những vai trò và đóng góp nhất định của FDI trong tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam, nhất là trong những năm gần đây, khi mà vốn đầu tư trong nước đã sụt giảm do Chính phủ đã thắt chặt hơn chi tiêu và đầu tư công, đặc biệt là đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước. Kể từ năm 2007, sự gia tăng vốn đầu tư FDI đã bù đắp đáng kể sự sụt giảm tỷ lệ đầu tư trong nước trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.

Vốn FDI, cùng với vốn đầu tư trong nước, và lao động, đã có những đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP của Việt Nam trong vòng hơn mười năm vừa qua. Về lý thuyết, chúng ta biết rằng, trong sản xuất, ba yếu tố chính làm tăng trưởng GDP bao gồm lao động (L), vốn (K) và yếu tố năng suất tổng hợp (TFP), tức các yếu tố liên quan đến quản lý, kỹ thuật và chất lượng không phản ánh được qua lao động và tài sản cố định. Hiện nay, kinh tế Việt Nam vẫn thâm dụng nặng nề về K và L, trong khi TFP có sự sụt giảm nghiêm trọng trong giai đoạn 2007-2012 (xem bảng 1). Một nghiên cứu của Nguyễn Việt Phong và Bùi Trinh về hiệu quả của chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu còn cho thấy, TFP tính riêng cho khu vực FDI thời kỳ 2006-2011 lại là một con số âm (-53,99%!). Như thế, chúng ta có thể nói, vốn FDI đã không đóng góp vào việc gia tăng chất lượng GDP, nếu không muốn nói là đã kéo lùi nó, thông qua đầu tư tập trung vào những lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp, chẳng hạn ngành may mặc và da giày, với máy móc và công nghệ lạc hậu.

Ở một phương diện khác, số liệu từ cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam cho thấy, trong khoảng thời gian 1995-2012, thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam đã được bù đắp đáng kể bởi các dòng tiền thặng dư của FDI. Thế nhưng, có thể chúng ta đã quên không chú ý đến một vấn đề dường như mang tính “luẩn quẩn”: có phải chăng chính hoạt động sản xuất của FDI lại là một tác nhân quan trọng tạo ra nhập siêu. Điều này có thể được lý giải khi trong hầu hết các ngành gia công, nhu cầu thanh toán nhập khẩu các khoản nguyên vật liệu chiếm phần lớn trong cơ cấu giá thành, đặc biệt trong những ngành dệt may, lắp ráp điện tử.

Lập luận trên càng được củng cố khi chúng ta phân tích cơ cấu xuất nhập khẩu của FDI so với phần còn lại trong nước. Hình 1 cho thấy, kể từ năm 2009, xuất khẩu của FDI đã tăng tốc và chiếm thị phần áp đảo so với kinh tế trong nước. Thế nhưng, hình 3 cho chúng ta thấy thị phần nhập khẩu từ nhóm FDI cũng gia tăng theo chiều hướng và mức độ ngày càng cao hơn.

Chúng ta có thể suy nghĩ nhiều hơn về hai hình 1 và 2. Về mặt lý thuyết, các giao dịch xuất khẩu như trên sẽ chuyển giao quyền sở hữu về tài sản cho các nhà đầu tư FDI, dù là dưới tư cách pháp lý là một thường trú nhân của Việt Nam. Thế nhưng, có chăng việc FDI càng tăng tốc xuất khẩu, thì kinh tế chúng ta càng thua thiệt qua các hoạt động chuyển giá của các công ty đa quốc gia thông qua hệ thống dày đặc các công ty con, công ty trá hình trên toàn thế giới? Thật là nghịch lý khi FDI xuất khẩu nhiều như vậy nhưng đa số các công ty FDI lại không đóng thuế thu nhập, thậm chí từ hàng chục năm nay. Tương tự, nền kinh tế Việt Nam phải chắt bóp từng xu ngoại hối để phục vụ việc trả nợ nước ngoài; và nhập siêu, theo lập luận phía trên, lại có nguyên nhân quan trọng từ FDI. Thử hỏi, trong số vô vàn nguyên vật liệu và máy móc nhập khẩu phục vụ sản xuất FDI, có bao nhiêu phần trăm được “kê” giá thông qua chuyển giá, sao cho FDI trong nước gần như không thể nào lời nổi để có thể đóng thuế. Bên cạnh đó, cũng cần nói thêm, tình trạng nhập máy móc lạc hậu với giá chuyển giao cao ngất, một mặt làm tăng “ảo” số liệu thực về đầu tư FDI, và mặt khác, góp phần làm sa sút một cách tồi tệ chất lượng TFP của khu vực FDI đối với GDP.

Hình 3 cho chúng ta thấy thu nhập từ đầu tư chuyển ra nước ngoài ngày càng cao, thậm chí có xu hướng ngày càng thu hẹp khoảng cách với đầu tư FDI. Nói một cách khác, dòng tiền ròng liên quan đến FDI thực tế chắc chắn sẽ thấp hơn nhiều so với những báo cáo đầu tư nước ngoài tại Việt Nam của một số bộ ngành.

Cuối cùng, FDI có đóng góp gì trong việc tạo ra công ăn việc làm cho nền kinh tế Việt Nam? Bảng 2 cho thấy, hầu như không có cải thiện về cơ cấu lao động đáng ghi nhận cho khu vực này. Cơ cấu lao động khu vực FDI vẫn chiếm một tỷ phần rất thấp, chỉ khoảng 3-3,5%, so với phần còn lại trong nước.

Nguồn lao động phục vụ cho khu vực FDI xét về chất lượng như thế nào? Đây là một vấn đề khó phân tích hơn nhiều. Nhưng qua bảng 3, chúng ta có thể ít nhiều ngạc nhiên khi thấy rằng, tính theo giá hiện hành, tỷ phần giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI gần như không có sự gia tăng trong vòng gần 10 năm qua. Kết hợp với các phân tích liên quan đến TFP phía trên, chúng ta có thể nghĩ đến một kết luận không mấy lạc quan về vai trò tạo ra công ăn việc làm, khả năng cải thiện chất lượng, năng suất lao động của khu vực sản xuất có vốn FDI.

Còn nhiều vấn đề quan trọng khác vẫn chưa được phân tích trong bài viết này, chẳng hạn đóng góp FDI về đầu tư cho con người và tri thức, vấn đề tác động của đầu tư FDI vào môi trường thiên nhiên và tăng trưởng kinh tế vùng miền… Thế nhưng, khá nhiều vấn đề mấu chốt để đánh giá vai trò của khu vực kinh tế FDI và hậu quả của nó đối với tăng trưởng kinh tế thường xuyên của Việt Nam đã được đề cập và gợi mở.

(*) Đại học Kinh tế TPHCM

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới