Thủ tướng: Giải quyết tình trạng nông sản ‘được mùa, mất giá’
TH
(TBKTSG Online) – Thủ tướng cho rằng cần tập trung vào những chính sách được coi là "cú đấm thép" của Nhà nước để tháo gỡ vướng mắc, phát triển công nghiệp cơ giới hóa và chế biến nông sản.
![]() |
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại hội nghị. Ảnh: TTXVN |
Ngày 21-2, chủ trì Hội nghị trực tuyến về thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến nông sản và cơ giới hóa nông nghiệp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tán thành với ý kiến tăng cường chế biến sâu, coi đây là hướng đi quan trọng để hướng đến thị trường toàn cầu, giải quyết tình trạng "được mùa, mất giá".
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện hệ thống công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam có công suất thiết kế khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu nông sản/năm với hơn 7.500 cơ sở quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu và hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ lẻ, hộ gia đình.
Công nghệ chế biến nông sản Việt Nam đã đạt mức độ trung bình của thế giới. Một số ngành hàng có công nghệ và thiết bị chế biến tương đối hiện đại mang tầm khu vực và thế giới, như chế biến hạt điều, càphê, lúa gạo, tôm, cá tra…
Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của công nghiệp chế biến nông sản đạt khoảng 5-7%/năm. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng mạnh, bình quân tăng khoảng 8-10%/năm.
Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 41,3 tỉ đô la, xuất khẩu tới hơn 186 nước và vùng lãnh thổ.
Công nghiệp chế biến nông sản giải quyết việc làm trực tiếp cho khoảng 1,6 triệu lao động, trong đó phần lớn là con em nông dân, với mức thu nhập bình quân 5-7 triệu đồng/tháng.
Về cơ giới hóa nông nghiệp, đến nay, trang bị động lực bình quân trong sản xuất nông nghiệp cả nước đạt khoảng 2,4 mã lực/ha canh tác. Cả nước hiện có hơn 7.800 doanh nghiệp cơ khí (95 doanh nghiệp có vốn trên 500 tỉ đồng); gần 100 cơ sở chế tạo máy, thiết bị nông nghiệp.
Tuy nhiên, nhiều cơ sở chế biến của nhiều ngành hàng có tuổi đời trên 15 năm (chiếm trên 70%) với thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp (chè, cao su, sắn); hệ số đổi mới thiết bị chỉ ở mức 7%/năm (bằng 1/2-1/3 mức tối thiểu của các nước khác).
Tổn thất sau thu hoạch còn lớn (10-20%) do thiếu cơ sở vật chất bảo quản đáp ứng yêu cầu. Sản phẩm chế biến chủ yếu vẫn là sơ chế có giá trị gia tăng thấp (chiếm 70-85%); sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao chiếm khoảng 15-30% (thủy sản khoảng 30%, các loại nông sản khác khoảng 10-20%, sản phẩm bao gói nhỏ cung cấp cho bán lẻ chỉ chiếm khoảng 10%).
Mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp một số khâu còn thấp, chưa toàn diện; trình độ trang bị máy động lực còn lạc hậu, hầu hết các máy làm đất công suất nhỏ, chỉ thích hợp với quy mô hộ và đất manh mún.
Thủ tướng cho rằng nông nghiệp Việt Nam còn tiềm năng lớn, có thể làm giàu từ nông nghiệp. Tuy vậy, lãng phí và thất thoát trong nông nghiệp vẫn còn cao trong các khâu chế biến, thu hoạch, bảo quản. Cơ giới hóa còn thấp, thấp hơn cả Thái Lan, nên năng suất lao động nông nghiệp thấp.
Về tình trạng năng suất lao động nông nghiệp còn thấp, Thủ tướng cho rằng cần giảm tỷ lệ lao động trong nông nghiệp mạnh mẽ bằng cách áp dụng cơ giới hóa; tiếp tục áp dụng khoa học công nghệ, có thêm nhiều giống mới chịu hạn, mặn tốt, ứng dụng công nghệ số, công nghệ sinh học, cơ khí để nâng cao giá trị, chất lượng.
Một yếu tố nữa được Thủ tướng gợi mở để tăng sức cạnh tranh của nông sản Việt đó là tiếp tục giảm giá thành, giảm chi phí, nhất là chi phí logistics, chi phí vận chuyển. Bên cạnh đó, cần xây dựng thương hiệu nông sản, từ đó có thể quy hoạch vùng nguyên liệu quy mô lớn.
Cơ bản đồng ý với định hướng phát triển công nghiệp chế biến nông sản và cơ giới hóa nông nghiệp, Thủ tướng nhấn mạnh tầm nhìn phát triển công nghiệp chế biến nông sản: phấn đấu đến 2030 đứng trong tốp 10 thế giới, là một trung tâm chế biến sâu và logistics nông sản toàn cầu.
Về tầm nhìn phát triển cơ giới hóa nông nghiệp: phấn đấu đến 2030, cơ giới hóa đồng bộ, hiện đại ở các ngành hàng chủ lực, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và giảm tổn thất trong nông nghiệp.
Theo TTXVN