Thứ Bảy, 20/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Ưa mệnh lệnh, ghét thị trường

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Ưa mệnh lệnh, ghét thị trường

Trần Đình Thiên

(TBKTSG) – Đặc trưng nổi bật của cách điều hành kinh tế vĩ mô thời gian qua tính từ năm 2007, khi nền kinh tế nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), là nặng về sử dụng các biện pháp hành chính, giật cục, thiếu nhất quán và khó dự báo.

Các loại giá cả, như giá xăng dầu, giá điện, giá than, lãi suất… – phạm trù trung tâm của kinh tế thị trường – được điều hành hầu như hoàn toàn theo mệnh lệnh hành chính. Những tuyên bố về yêu cầu áp dụng cơ chế giá thị trường cho một số ít mặt hàng chiến lược còn lại mà giá cả chưa được “thị trường hóa” đầy đủ được đưa ra nhiều và khá mạnh mẽ, nhưng lại chậm hoặc ít được thực thi. Xu hướng chung là nền kinh tế càng bất ổn thì cách điều hành hướng vào xử lý tình thế ngắn hạn như vậy càng “áp đảo”. Nhưng do hiệu quả đạt được của cách điều hành này thấp nên chúng càng làm gia tăng tình trạng mất lòng tin của thị trường.

Trong số các chính sách điều hành vĩ mô của năm 2012, có thể lấy cách điều hành chính sách tiền tệ, trong đó, nổi bật nhất là chính sách lãi suất, làm “mẫu” để phân tích nhằm rút ra những kinh nghiệm.

Trong vài năm qua, lãi suất được điều hành chủ yếu bằng mệnh lệnh của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thay vì sử dụng các công cụ thị trường (công cụ chính sách tiền tệ). Cơ chế điều hành là “áp đặt” lãi suất huy động trong khi để “tùy định” lãi suất cho vay. Theo cơ chế này, người gửi tiền bị áp đặt trần lãi suất trong khi người cho vay (các ngân hàng) có quyền áp đặt lãi suất cho vay nhiều hơn trong quan hệ “thỏa thuận lãi suất” với các doanh nghiệp đi vay.

Hai năm qua, trong điều hành thực tế, sử dụng quyền được quyết định “trần lãi suất huy động”, NHNN luôn chủ động giảm lãi suất huy động xuống mạnh hơn và nhanh hơn lãi suất tín dụng. Nghĩa là về nguyên tắc, trong suốt một thời gian khá dài, cách làm của NHNN cho phép duy trì khoảng cách giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay ít nhất là an toàn, nếu không nói là luôn có lợi cho các ngân hàng trong khi các doanh nghiệp vẫn cứ phải trông chờ lãi suất hạ từng điểm phần trăm để giảm nhẹ gánh nặng lãi suất cao – nợ xấu và giảm thiểu nguy cơ đóng cửa vì không thể tiếp cận vốn do lãi suất vẫn cao.

Tuy cách điều hành lãi suất đó của NHNN dựa vào một lý lẽ có vẻ như rất khó bắt bẻ về mặt nguyên tắc – để hạ lãi suất cho vay thì trước hết phải hạ lãi suất huy động, song thực tế duy trì “độ trễ” của việc giảm lãi suất cho vay so với giảm lãi suất huy động trong suốt một thời gian dài làm cho tương quan lợi ích giữa ngân hàng với doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung trở nên khó biện minh: trong khi các doanh nghiệp cần được “cấp cứu” thì ngân hàng vẫn không muốn chia sẻ một phần lợi ích mình thu được với doanh nghiệp; ngân hàng cũng không muốn chịu bất cứ rủi ro nào, trước tiên là rủi ro giảm hay mất lợi nhuận trong khi nền kinh tế và các doanh nghiệp đang lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng, đến mức nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và phải đóng cửa.

Cũng phải nói thêm rằng chính sách lãi suất trong thời gian qua, nếu nhìn tổng thể, còn gây ra hiệu ứng “kép”: một bên là làm suy yếu động cơ gửi tiền vào ngân hàng của xã hội; một bên khác là làm chậm quá trình tiếp cận vốn giá rẻ hơn của các doanh nghiệp.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới