Thứ Sáu, 29/03/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Việt Nam trước cơ hội ‘chuyển mình’ trong kỷ nguyên số

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Việt Nam trước cơ hội ‘chuyển mình’ trong kỷ nguyên số

Hoàng Thắng

(TBKTSG Online) – Chính phủ cần có những dự án đầu tư công vào phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, thanh toán điện tử và ngân hàng điện tử nếu muốn hiện thực hoá mục tiêu số hoá toàn diện nền kinh tế, theo PGS. TS Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý Khoa học – trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Việt Nam trước cơ hội ‘chuyển mình’ trong kỷ nguyên số
Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) được giới thiệu tại một sự kiện về chuyển đổi số. Ảnh minh họa: Hoàng Thắng

TBKTSG Online: Kinh tế số được nhắc tới như một hướng đi tất yếu của nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch. Vậy Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức gì khi phát triển loại hình kinh tế này?

PGS. TS Tô Trung Thành: Thứ nhất, Việt Nam có một nguồn dân số trẻ, năng động, dễ dàng tiếp thu những kiến thức và kỹ năng mới, trong đó có kiến thức và kỹ năng số. Tỷ lệ dân số ở độ tuổi lao động tương đối cao. Nguồn nhân lực trẻ và giáo dục được coi là những tài sản giá trị trong quá trình chuyển đổi kinh tế và số hóa.

Ngoài ra, còn có sự gia tăng rất lớn của tầng lớp trung lưu, theo đó, thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến nền kinh tế số cũng được mở rộng.

Nhưng thách thức không nhỏ là chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn yếu kém, hạn chế cả về chuyên ngành đào tạo, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, khả năng làm việc độc lập, nhóm.

Thứ hai, Chính phủ đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, hình thành cổng thông tin điện tử quốc gia, cải cách nền hành chính theo hướng số hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việt Nam đã thực sự coi công nghệ số, kinh tế số là một cơ hội lớn để có thể tiến nhanh và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Nhưng xuất phát điểm cho phát triển kinh tế số của Việt Nam thấp hơn so với các nước trong khu vực. Ngoài ra, nhận thức, kiến thức của cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người dân về kinh tế số chưa thống nhất, chậm chạp, và không đồng đều. Đặc biệt, hành lang pháp lý và môi trường thể chế chính sách còn nhiều bất cập và là rào cản lớn cho phát triển kinh tế số.

Vì vậy, sự sẵn sàng cho số hóa của Việt Nam vẫn ở mức thấp. Mức độ sẵn sàng cho số hóa của Việt Nam chỉ đứng thứ 70/141 quốc gia, dưới nhiều nước trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan, theo xếp hạng năm 2019 của Cisco.

Thứ ba, Việt Nam đang tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo của mình. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2020 xếp Việt Nam ở vị trí 42, dẫn đầu trong số các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Điều này có thể là lợi thế cho các doanh nghiệp khởi nghiệp về công nghệ mới nổi trong khu vực trong việc tìm kiếm các nguồn tài chính cho đổi mới sáng tạo.

Thêm vào đó, Việt Nam có nhiều lợi thế để vượt qua giai đoạn “bắt kịp công nghệ” tiến tới “phát triển công nghệ” nhờ vị trí gần với trung tâm địa kinh tế toàn cầu và trung tâm công nghệ của thế giới.

Tuy nhiên, năng lực nội tại của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn một khoảng cách lớn với khu vực về đổi mới, sáng tạo.

Thứ tư, tốc độ đổi mới công nghệ ngày càng nhanh phát triển nhanh chóng công nghệ truyền thông di động, với mạng 4G hiện phủ sóng hơn 95% các hộ gia đình, và đang xây dựng mạng 5G. Phạm vi phủ sóng không dây rộng rãi cùng với số lượng người tiêu dùng sử dụng điện thoại di động cao, có thể giúp ngăn chặn việc phân chia số và đảm bảo mọi người đều có thể khai thác được từ kinh tế số.

Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều ngành công nghiệp công nghệ thông tin mũi nhọn như thương mại điện tử, Fintech, kinh tế chia sẻ… Ngoài ra, nước ta hiện là điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư và là môi trường với nhiều điều kiện ưu đãi để khởi nghiệp công nghệ.

Tuy nhiên, tốc độ đổi mới công nghệ nhanh đã dẫn tới sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp đã sẵn sàng và doanh nghiệp chưa sẵn sàng ngày càng gia tăng. Tương tự, sự phát triển của thương mại điện tử tác động tiêu cực đến hệ thống bán lẻ.

Thêm vào đó, khung pháp lý với nhiều lĩnh vực số chưa hoàn thiện đã dẫn tới những kẽ hở và sai phạm, gây mất lòng tin đối với những ứng dụng công nghệ, kể cả chính thương mại điện tử.

Ngoài ra, cơ sở hạ tầng thường khó bắt kịp với tốc độ đổi mới này và phải cần rất nhiều vốn để có thể kịp thời thích ứng bối cảnh mới.

Chính phủ cần làm gì để kinh tế số thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, thưa ông

Chính phủ cần có một bản chiến lược khung làm nền tảng cho các định hướng và hành lang pháp lý, thể chế cho việc chuyển đổi số. Mục tiêu mà Việt Nam hướng tới là kịch bản chuyển đổi – đồng bộ số hóa ở tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, việc này phải bắt đầu từ hoạt động quản trị Nhà nước.

Ngoài ra, cần sở hữu một hạ tầng và dịch vụ số rộng khắp với khả năng bao quát mọi ngõ ngách của nền kinh tế và đến từng công dân, nếu muốn có một nền kinh tế chuyển đổi số đồng bộ, toàn diện. Để làm được điều đó, chúng ta cần có một nguồn lực cực lớn với điểm tựa chính là nguồn vốn xã hội đến từ khu vực tư nhân và khu vực FDI chứ không thể chỉ đến từ nguồn ngân sách Nhà nước.

Điều kiện căn bản để thu hút nguồn vốn đầu tư này là môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng và minh bạch.

Về dài hạn, chuyển đổi số phải xuất phát từ sự đổi mới của hệ thống giáo dục – đào tạo thông qua thay đổi từ cách thức quản lý giáo dục, phương pháp dạy, giáo trình dạy và cả những môn học mới gắn chặt với số hóa. Cụ thể, kỹ năng số sẽ được giới thiệu tới lứa tuổi trẻ hơn, từ cấp mầm non và nâng dần mức độ cho các lứa tuổi và cấp độ học cao hơn.

Ngoài ra, cần thực hiện các chính sách kinh tế ưu đãi về thuế, về tín dụng với các doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ, đổi mới, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.

Bên cạnh đó, cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đội ngũ doanh nhân. Lý do là trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn khá lạc hậu, số lượng các doanh nghiệp tham gia các hoạt động đổi mới sáng tạo còn hạn chế, tỷ lệ các doanh nghiệp chi cho các hoạt động nghiên cứu phát triển rất thấp.

Cuối cùng, Chính phủ cần tạo dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số để các doanh nghiệp hòa nhập và nắm bắt được xu hướng và thế mạnh của kỷ nguyên kinh tế số. Đầu tư công vào phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin/viễn thông, thanh toán điện tử và ngân hàng điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện sự sẵn sàng đối với kỷ nguyên công nghệ số.

Ông có thể đề xuất những giải pháp dài hạn nhằm dịch chuyển mô hình phát triển kinh tế theo hướng bền vững hơn?

Bên cạnh những giải pháp ngắn hạn mang tính ứng phó với Covid-19, Chính phủ cũng cần thực hiện các giải pháp mang tính dài hạn để chuẩn bị những điều kiện cơ bản cho phát triển bền vững sau đại dịch. 

Thứ nhất, yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải tìm kiếm động lực tăng trưởng mới trong bối cảnh những động lực cho tăng trưởng trước đây đang dần cạn kiệt. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng dựa vào nền tảng công nghệ và đổi mới sáng tạo là giải pháp căn bản trong giai đoạn phát triển sắp tới của nền kinh tế.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng: xây dựng nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính và hành động; tôn trọng và bảo vệ sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; thực hiện phân cấp quản lý với phân cấp ngân sách; tinh giảm và kiện toàn bộ máy.

Thứ ba, phát triển khu vực tư nhân đổi mới, năng động, sáng tạo. Đảm bảo thể chế kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân và bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tạo môi trường đầu tư và cơ hội bỏ vốn. Cần có chiến lược nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong nước để họ đủ năng lực học hỏi công nghệ mới hoặc đủ năng lực cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp FDI. Chiến lược này cần gắn kết chặt chẽ với chính sách phát triển khoa học và công nghệ, chính sách giáo dục và đào tạo, chính sách thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và nuôi dưỡng doanh nghiệp tư nhân trong nước để các DN lớn dần và sớm đạt quy mô phù hợp.

Thứ tư, cần cụ thể hóa những chính sách thu hút đầu tư FDI “chất lượng”, hạn chế các dòng vốn đầu tư FDI công nghệ thấp vào Việt Nam chỉ để tận dụng nhân công rẻ hay “rửa xuất xứ” để gia công. Cần phải giảm dần việc áp dụng hình thức ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế một cách tràn lan và “xé rào” ở các địa phương; cũng như rà soát lại toàn bộ các quy định pháp lý về ưu đãi thuế đối với các dòng vốn FDI “kém chất lượng”. Đồng thời chỉ tiếp nhận và tạo ưu đãi đôt phá đối với các dòng vốn đầu tư sử dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tạo giá trị gia tăng cao, kết nối với các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, đưa Việt Nam lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị khu vực, đóng góp vào tăng trưởng bền vững.

Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao thông qua cải cách toàn diện hệ thống giáo dục, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tăng thực hành; phát triển năng lực theo hướng đa kỹ năng; tăng cường kết nối giữa cơ sở đào tạo và thị trường. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư vào giáo dục thông quan hệ đối tác công tư.

Thứ sáu, phát triển bền vững về môi trường qua các giải pháp gồm: phát triển công nghệ xanh, năng lượng sạch; phục hồi, duy trì và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên; kiểm soát hoạt động gây ô nhiễm và suy thoái môi trường; tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.

Xin cảm ơn ông!
 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới