Thứ Bảy, 20/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

Y học “thực thị”

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Y học “thực thị”

Nguyễn Văn Tuấn (*)

Nghiên cứu dược phẩm tại AstraZeneca – công ty đã thổi phồng hiệu quả của thuốc Seroquel.

(TBKTSG) – Lịch sử y học hiện đại đã trải qua một cuộc cách mạng và đang trong giai đoạn của một cuộc cách mạng mới. Sau một thời gian dài dựa vào kinh nghiệm, nghệ thuật, và có phần huyền thoại, y học hiện đại chuyển sang thời kỳ của y học thực chứng (Evidence-based Medicine).

Y học thực chứng đòi hỏi người thầy thuốc phải hành nghề y dựa trên bằng chứng khoa học, chứ không phải dựa vào kinh nghiệm cá nhân và ý kiến chủ quan. Bằng chứng khoa học được đúc kết từ những công trình nghiên cứu y học đúng với phương pháp khoa học.

Những công trình nghiên cứu y học ngày nay thường do các công ty dược tài trợ hay bảo trợ, và chính vì mối liên hệ này đã và đang làm nảy sinh một số mâu thuẫn trầm trọng giữa người thầy thuốc và kỹ nghệ dược. Những mâu thuẫn này thường xuất phát từ việc kỹ nghệ dược kiểm soát nguồn thông tin, và chỉ muốn công bố những thông tin có lợi cho chiến lược tiếp thị của họ. Hệ quả là thông tin y học bị bóp méo theo chiều hướng phục vụ cho kinh doanh, thay vì phục vụ cho lợi ích của bệnh nhân. Tình trạng này được gọi là “Marketing-based Medicine” (MBM), hay tạm dịch là “Y học thực thị”.

Y học thực thị như trình bày trên có thể hiểu (hay định nghĩa) là khoa học bị bắt cóc nhân danh đồng tiền, nhân danh lợi nhuận. Nếu y học thực chứng kêu gọi người thầy thuốc thực hành y khoa dựa vào bằng chứng khoa học, thì y học thực thị ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành y khoa, kể cả giấu giếm thông tin, lấp liếm các dữ liệu “tiêu cực”, hiện tượng “tác giả ma”, y khoa hóa đời sống thường nhật, và làm tha hóa y khoa.

Khoa học như là tiếp thị

Trong thời đại y học thực chứng, thông tin khoa học đóng vai trò chủ đạo. Thông tin khoa học đúc kết từ những công trình nghiên cứu lâm sàng có ý nghĩa rất lớn với một loại thuốc và có khi ảnh hưởng đến số mệnh thương mại của một công ty. Một công trình nghiên cứu lâm sàng do kỹ nghệ dược tài trợ thường tốn khoảng 10-20 triệu đô la và kéo dài ba năm.

Nếu kết quả nghiên cứu cho thấy thuốc có hiệu quả lâm sàng, thì đó là một tin vui cho công ty, vì nhà chức trách sẽ cho phép thuốc được lưu hành trên thị trường. Nhưng nếu kết quả cho thấy thuốc kém hay không có hiệu quả lâm sàng, thì khả năng thuốc đó xuất hiện trên thị trường rất thấp, và bao nhiêu tiền bạc bỏ ra cho nghiên cứu xem như mất.

Chính vì lý do này mà kỹ nghệ dược muốn kiểm soát dữ liệu nghiên cứu. Hai chữ “kiểm soát” ở đây bao gồm cả việc quyết định công bố hay không công bố kết quả nghiên cứu. Đứng trên quan điểm khoa học, dù kết quả công trình nghiên cứu là “tích cực” hay “tiêu cực” đều cần phải được công bố.

Nhưng đứng trên quan điểm kinh doanh và tiếp thị, chẳng ai muốn “vạch áo cho người xem lưng” để công bố những dữ liệu không có lợi cho công ty vốn đã bỏ ra hàng chục triệu đô la cho nghiên cứu. Mâu thuẫn giữa khoa học và kinh doanh xuất phát từ việc kiểm soát và xử lý thông tin khoa học.

Một số tài liệu của kỹ nghệ dược tiết lộ trong tòa án Mỹ gần đây cho thấy y học thực chứng đang chịu sự chi phối của tiếp thị. Một tài liệu của Công ty Pfizer viết rõ: Pfizer bảo trợ cho các nghiên cứu thuộc về công ty, chứ không thuộc về một cá nhân nào (ý nói dữ liệu là của công ty chứ không phải của nhà nghiên cứu), mục đích của dữ liệu là yểm trợ trực tiếp hay gián tiếp cho việc tiếp thị sản phẩm.

Giấu dữ liệu

Các sản phẩm dược, nhất là các thuốc điều trị lâm sàng, thường được cấp bằng sáng chế (patent) và công ty có quyền khai thác sản phẩm một thời gian (trước khi sản phẩm hết hạn bản quyền, thành loại thuốc generic). Trong thời gian sản phẩm được bảo vệ bởi Luật Bản quyền cũng chính là thời gian các công ty “ăn nên làm ra”.

Thông tin khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá và tiếp thị sản phẩm trong giai đoạn này. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học không phải lúc nào cũng cho ra những kết quả dương tính; trong thực tế có nhiều nghiên cứu cho thấy thuốc không có hiệu quả lâm sàng. Bởi vì kỹ nghệ dược là chủ nhân của thông tin, nên họ có quyền không công bố những kết quả âm tính. Hệ quả là bệnh nhân có thể bị thiệt thòi vì sự lệch lạc thông tin.

Trường hợp thuốc Seroquel là một ví dụ tiêu biểu cho tình trạng giấu giếm thông tin. Seroquel là thuốc anti-psychotic thế hệ thứ 2. Năm 2000, AstraZeneca thực hiện một số nghiên cứu so sánh hiệu quả của Seroquel với một đối thủ khác là Haloperidol (một loại thuốc có cùng chức năng nhưng thế hệ cũ). Kết quả nghiên cứu được trình bày trong đại hội của Hiệp hội Tâm thần Mỹ, tác giả tuyên bố: “Tôi hy vọng rằng những kết quả phân tích này sẽ giúp bác sĩ hiểu tốt hơn về lợi ích của Seroquel, và giúp cho bệnh nhân sớm có thuốc mới”.

Thế nhưng tài liệu trình bày trước tòa án cho chúng ta thấy một “câu chuyện” rất khác. Tài liệu nghiên cứu của chính Công ty AstraZeneca cho thấy Seroquel có hiệu quả lâm sàng kém hơn Haloperidol. Một giám đốc của AstraZeneca viết e-mail như sau: “Những dữ liệu này xem ra chẳng tốt chút nào. Thật ra, tôi không biết làm sao chúng ta có thể công bố kết quả này”. Khi bị chất vấn trước thông tin này, tác giả thú nhận rằng quả thật có sự thổi phồng, nhưng khăng khăng nói rằng ông đã phân tích đúng phương pháp!

Câu chuyện Seroquel không phải là cá biệt. Trong thực tế, hàng loạt thuốc của các “đại gia” trong kỹ nghệ dược như Lily, GlaxoSmithKline, Merck, Proter Gamble… đều có vấn đề trong việc kiểm soát thông tin. Nhiều khi hiệu quả của thuốc đổi đen thành trắng. Tài liệu của chính kỹ nghệ dược thú nhận rằng những ém nhẹm thông tin hay cung cấp thông tin có chọn lọc là một bí mật nhỏ mang tính bẩn thỉu (“dirty little secret”). Y học thực thị đã và đang trở thành một thực tế trong thế kỉ 21.

Nói tóm lại, qua tài liệu mật của kỹ nghệ dược được tiết lộ trước tòa án Mỹ, công chúng có dịp biết đến cả một kỹ nghệ đằng sau những sản phẩm của kỹ nghệ dược. Kỹ nghệ này bao gồm viết thuê, mua hay hối lộ các nhà nghiên cứu, tuyên truyền nhằm y khoa hóa đời sống thường ngày để bán thuốc…

Điều đáng quan tâm là các thông tin khoa học bị “vận dụng” để phục vụ cho mục tiêu tiếp thị thay vì chăm sóc bệnh nhân. Tiếp thị tự nó không có gì sai hay đáng trách; tiếp thị chỉ có vấn đề khi thông tin khoa học bị vặn vẹo và có tiềm năng gây tác hại đến người bệnh. Y học thực chứng dựa vào và đòi hỏi thông tin khoa học phải chính xác, nhưng trong tình huống y học chịu sự chi phối của kỹ nghệ tiếp thị thì mục tiêu của y học thực chứng có thể bị lệch.

________________________________________

(*) Viện Nghiên cứu y khoa Garvan, Sydney, Úc

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới