Chúng ta sẽ đi làm thuê trên chính đất nước mình?
Nguyễn Vạn Phú
May mặc, ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, vẫn phải phụ thuộc phần lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Ảnh: MINH KHUÊ |
(TBKTSG) - Hiện đang nổi lên luồng suy nghĩ nền kinh tế Việt Nam đang lệ thuộc ngày càng nhiều vào đầu tư nước ngoài với hệ lụy cuối cùng là người Việt phải đi làm thuê trên chính đất nước mình. Có bao nhiêu phần trăm sự thật trong lập luận này?
Một thực tế phức tạp và đang biến đổi
Điều có thể khẳng định ngay là thực tế luôn phức tạp hơn hình dung kiểu trắng đen “nước ngoài” - “trong nước”; “nội lực” - “ngoại lực”...
Lấy ví dụ, ai cũng biết dược phẩm nhập khẩu giá rẻ từ các nước như Ấn Độ, Hàn Quốc thông qua các công ty Việt Nam đang làm chao đảo sản xuất của các công ty dược có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bởi không thể cạnh tranh nổi bằng giá. Ở đây thật khó lòng phân định đâu là lợi ích cho khu vực trong nước, đâu là lợi ích cho khu vực nước ngoài.
Cái thực tế phức tạp đó có thể xuất hiện dưới dạng một sản phẩm nhìn qua tưởng đâu 100% là của Việt Nam nhưng thực chất do doanh nghiệp trong nước sang Trung Quốc thuê sản xuất rồi dán nhãn Việt Nam. Nó cũng có thể là một chuỗi cửa hàng mang thương hiệu nước ngoài nhưng thực chất do doanh nghiệp 100% vốn trong nước làm chủ. Nó có thể là một doanh nghiệp trong nước nhưng cổ phần đã bán gần hết cho nhà đầu tư nước ngoài.
Nhưng do đâu mà có luồng suy nghĩ nói trên?
Trước hết, đó là các con số thống kê khá lạnh lùng. Về ngoại thương, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa của khu vực kinh tế trong nước năm 2000 là 52,98%, giảm xuống còn 36,93% năm 2012; khu vực FDI tăng lên tương ứng từ 47,02% năm 2000 lên 63,07% năm 2012. Chín tháng đầu năm 2014, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 109,6 tỉ đô la, thì khu vực kinh tế trong nước đạt 36,6 tỉ đô la (chỉ còn hơn 33%) còn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 73 tỉ đô la (hơn 66,6%). Xu hướng này sẽ còn tiếp tục theo hướng khu vực FDI ngày càng xuất khẩu nhiều hàng hóa hơn khu vực trong nước.
Theo cựu Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển thì doanh nghiệp FDI cũng đã chiếm tỷ trọng gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Trong khi quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp trong nước giảm 3,6% (năm 2012 - từ 25 tỉ đồng xuống còn 24 tỉ đồng) thì quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp FDI lại tăng từ 207 tỉ đồng lên 307 tỉ đồng.
Thứ hai là cảm nhận từ quan sát chủ quan của nhiều người. Gần đây thông tin cho thấy doanh nghiệp trong nước không chen chân nổi vào chuỗi cung ứng cho các công ty đa quốc gia đang dùng Việt Nam làm căn cứ sản xuất toàn cầu làm nhiều người thất vọng về ý nghĩa của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Họ cho rằng thu hút vốn FDI nhiều làm gì khi Việt Nam chỉ trở thành nơi gia công, để tận dụng giá công nhân rẻ mạt trong khi doanh nghiệp trong nước không được chuyển giao công nghệ, không làm được những công đoạn đơn giản nhất.
Với nhiều người khác, đó là cảm giác bất lực khi hệ thống phân phối dần rơi vào tay nước ngoài, khi mọi vật dụng, từ bàn chải, kem đánh răng đến chiếc xe gắn máy, ô tô đều do doanh nghiệp nước ngoài sản xuất. Ngay cả các nhà hàng ăn uống đơn giản, đông nghịt khách vẫn là các nhà hàng mang thương hiệu nước ngoài.
Vì sao lại có xu hướng như thế?
Sự teo tóp của doanh nghiệp trong nước bắt đầu từ luồng hứng khởi gia nhập WTO với những mỹ từ từng vang vang một thời như “ra khơi”, “cất cánh”, “ra biển lớn”. Dòng vốn nóng đổ vào, bong bóng địa ốc, tài sản và chứng khoán làm sản nghiệp của nhiều người, nhiều giới bỗng phình to ra nhanh chóng.
Không có mức lợi nhuận nào trong các ngành sản xuất truyền thống, kể cả nuôi thủy sản hay xuất khẩu đặc sản có thể sánh với tỷ suất lợi nhuận của chứng khoán, địa ốc, ngân hàng những năm ngay khi Việt Nam vào WTO. Đó là lý do vì sao doanh nghiệp trong nước dần dần từ bỏ nhiều lãnh vực cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nay đến khi bong bóng tài sản xì hơi, doanh nghiệp trong nước lại mắc kẹt nợ xấu, chi phí lãi vay ngân hàng quá cao, xoay xở trở lại thế mạnh cũ không kịp nữa. Trong khi đó, dường như khối doanh nghiệp FDI với nguồn lực riêng, không chịu ảnh hưởng của những đợt lãi suất quá cao, tỷ giá lại được bảo đảm nên có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển.
Chính vì thế mà việc doanh nghiệp FDI dường như là động cơ duy nhất còn chạy tốt (trong khi hai động cơ còn lại là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước đều gặp khó khăn) là điều an ủi, nhìn ở góc độ vĩ mô.
Doanh nghiệp FDI suy cho cùng cũng là doanh nghiệp Việt Nam; nếu họ tạo công ăn việc làm, nộp thuế đầy đủ, họ phát triển là điều đáng mừng vì đó là cơ sở để hy vọng nền kinh tế phục hồi đầy đủ cho mọi khu vực.
Nhưng cũng xét ở góc độ vĩ mô, cần nhớ phần chia cho người nước ngoài trong tổng sản phẩm nội địa ngày càng lớn. Theo ông Hà Quang Tuyến - Vụ trưởng Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia (Tổng cục Thống kê), chênh lệch giữa hai chỉ số GDP (tổng sản phẩm quốc nội, kể cả của công dân nước ngoài làm ra trên đất Việt Nam) và GNI (tổng thu nhập quốc dân, tức đã trừ phần làm ra của người nước ngoài), là rất lớn. Tại một cuộc họp báo vào cuối năm ngoái, ông Tuyến cho biết chênh lệch này trong các năm 2010 là 82.250 tỉ đồng, 2011 là 119.800 tỉ đồng, 2012 là 142.80 tỉ đồng và năm 2013 là 171.930 tỉ đồng. Có nghĩa GDP năm 2013 phải trừ bớt 8 tỉ đô la là phần của người nước ngoài làm ra, trước sau gì họ cũng đem về nước họ.
Vậy cân nhắc thiệt hơn là ở chỗ nào?
Như đã nói ở đầu bài, vấn đề không phải là cân nhắc ứng xử như thế nào đối với khu vực FDI mà đúng hơn là ứng xử một cách nhất quán để tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, bất kể sản xuất trong nước đó là do khu vực nào thực hiện.
Lấy ví dụ, nhiều người đã từng nói đến nghịch lý nhập khẩu nguyên chiếc máy tính thì sẽ chịu thuế suất thấp hơn so với nhập khẩu linh kiện về để lắp ráp chiếc máy tính. Hay gần đây nhất là một quan chức cấp cao ngành công thương cho biết, doanh nghiệp gia công may mặc nếu sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu thì được trả thuế chậm còn sử dụng nguyên vật liệu trong nước thì phải trả thuế ngay. Những nghịch lý này nếu không giải quyết sẽ vô hình trung khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho sản xuất trong nước.
Nhìn ở góc độ đó, rõ ràng Việt Nam chưa có một chiến lược rõ ràng nhằm hóa giải tác dụng tiêu cực của lộ trình giảm thuế theo các cam kết hội nhập. Vì không có gì thay thế cho động lực thuế, các doanh nghiệp, cả trong nước lẫn FDI đều dần dần từ bỏ sản xuất mà chuyển sang nhập khẩu; từ bỏ lắp ráp qua làm dịch vụ thương mại. Cũng vì thiếu chiến lược nên không có sự gắn kết hay liên kết giữa các lĩnh vực; cuối cùng sản xuất chăn nuôi trong nước lại phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài, ngành da giày, may mặc cũng vậy.
Quan trọng nhất là khâu phân phối, nơi người ta thường nói ai nắm sẽ nắm hết toàn bộ nền kinh tế. Thử tưởng tượng Việt Nam tung ra chiến dịch người Việt Nam dùng hàng Việt Nam nhưng hệ thống phân phối lại nằm trong tay người nước ngoài thì làm sao tiến hành chiến dịch theo ý định được. Hệ thống phân phối dù còn chưa hiện đại của Việt Nam hiện đang tạo công ăn việc làm cho hàng triệu con người; đang giúp hàng hóa sản xuất nhỏ lẻ đến tay người tiêu dùng. Điều đáng ngại là khu vực FDI hiện chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng nhưng đang có mức tăng nhanh hơn gấp đôi khu vực trong nước.
Khi Việt Nam nhập không chỉ chiếc điện thoại iPhone mà còn cả cây tăm nữa thì nỗi lo làm thuê trên đất nước mình mới thật sự đáng lo.
Còn những giá trị vô hình nữa
Đằng sau những con số thống kê về thị phần, tốc độ phát triển của khu vực FDI, còn có những giá trị hữu hình và vô hình mà doanh nghiệp FDI mang đến cho nền kinh tế sở tại. Tất cả những lợi ích trên là những lợi ích đã được chứng minh bằng cả lý thuyết lẫn thực chứng, chứ không phải là do một ai đó ngồi nghĩ ra. Bởi vậy, ngày nay chẳng có nước nào đóng cửa với FDI, và ngược lại, nền kinh tế càng khó khăn thì các chính phủ càng tìm cách thu hút thêm FDI, chứ không làm ngược lại. Công luận khi đánh giá về “công tội” của FDI cần phải nhìn đằng sau những con số thống kê lạnh lùng, khô cứng. TS. Phan Minh Ngọc |
Không thể ưu đãi doanh nghiệp nào hơn FDI là nguồn vốn bổ sung cực kỳ quan trọng của nền kinh tế nước ta kể từ khi đổi mới đến nay. Tuy nhiên, nguồn vốn này không thể quan trọng hơn nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước. Số liệu biểu đồ bên dưới cho thấy khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đang thay dần khu vực doanh nghiệp nhà nước trong việc tạo việc làm và thu nhập. Tuy nhiên, xét trên hai yếu tố này thì khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đóng vai trò nổi trội hơn so với doanh nghiệp FDI. Những kỳ vọng về chuyển giao công nghệ từ FDI và tăng khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp trong nước hiện nay đang rất thấp. Ngoài ra, lợi nhuận tạo ra trong các doanh nghiệp nội địa sẽ được quay vòng trong nước thông qua tiêu dùng hoặc tái đầu tư, trong khi đó phần lớn lợi nhuận của các doanh nghiệp FDI chủ yếu là chuyển ra khỏi nền kinh tế. Do đó, không có lý do gì để ưu đãi doanh nghiệp FDI hơn so với doanh nghiệp nội địa. Và ngược lại các cam kết quốc tế không cho phép chúng ta ưu đãi doanh nghiệp nội địa hơn doanh nghiệp FDI. Điều quan trọng là chúng ta cần có những chính sách để tăng cường kết nối các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa để thông qua đó tăng khả năng chuyển giao công nghệ và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam. Nguyễn Tú Anh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương |
Câu hỏi không cần thiết
Câu hỏi liệu người dân Việt Nam có phải làm thuê trên chính đất nước mình hay không thực ra không cần thiết. Thực tế đa số người dân đều là người làm công ăn lương, nghĩa là đằng nào họ cũng đang đi làm thuê rồi. Vấn đề là những người thuê họ, dù người Việt hay người nước ngoài có phải là những người chủ đàng hoàng hay không. Đàng hoàng ở đây có nghĩa những người chủ đó không bất chấp pháp luật, luân lý, công bằng để thu lợi cho mình. Liệu những đại gia mới nổi người Việt có thực sự là những người chủ tốt hơn các ông chủ nước ngoài ở những khía cạnh đó? Quan trọng hơn, đối với đa số người dân mà đằng nào cũng đang đi làm thuê, người chủ có quốc tịch Việt Nam hay một nước nào khác sẽ không phải là vấn đề đáng lưu tâm nếu người lao động có một cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền lợi cho họ. Cơ chế bảo vệ này không chỉ là một tổ chức công đoàn hiệu quả mà còn bao gồm toàn bộ hệ thống chính trị. Tiếng nói và nguyện vọng của những người làm công, là đa số dân chúng trong xã hội, phải được thể hiện trong việc định hình các thể chế chính trị và chính sách kinh tế - xã hội. Nếu hệ thống chính trị bị chi phối bởi một số nhỏ nhóm lợi ích thì dù những người giật giây đằng sau là người Việt hay người nước ngoài đại đa số dân chúng sẽ bị thiệt thòi, tương lai đất nước khó có thể xán lạn. Bởi vậy trước khi lo ngại liệu đa số người Việt sẽ làm thuê cho các ông chủ ngoại quốc hay các nhà tư bản nội địa, cần phải đảm bảo hệ thống chính trị thực sự phục vụ cho đa số dân chúng. Khi ý nguyện của người dân không bị gạt ra rìa thì vốn nội hay vốn ngoại không có nhiều ý nghĩa. Một hệ thống chính trị vì dân như vậy sẽ đưa được những người có năng lực vào các vị trí quản lý/điều hành để đảm bảo quyền lợi lâu dài của dân tộc không bị những ông chủ ngoại quốc hay nội địa lũng đoạn. Một vài biện pháp lẻ tẻ hạn chế đầu tư, hạn chế ưu đãi đầu tư FDI hay bảo hộ doanh nghiệp thuần Việt chỉ có tác dụng chữa trị các triệu chứng bề mặt, mà chưa chắc đã hiệu quả và thậm chí có thể làm căn bệnh bên trong trầm trọng hơn. TS. Lê Hồng Giang |
Do lỗi của chính chúng ta Trước tiên cần phải thấy rằng vai trò quan trọng của FDI trong việc cung cấp vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tạo việc làm, thúc đẩy cạnh tranh và thương mại... là không thể phủ nhận ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, các vấn đề phát sinh liên quan đến doanh nghiệp FDI như chuyển giá, trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường hay biến các doanh nghiệp trong nước thành người làm thuê... là do lỗi của chính chúng ta. Nguyên nhân gây ra các vấn đề này có thể bao gồm hệ thống quản lý và giám sát thuế yếu kém, chế tài xử lý việc gây ô nhiễm môi trường chưa đủ nghiêm, năng lực tiếp nhận công nghệ và trình độ kĩ năng lao động thấp, hay sự méo mó của hệ thống thuế gây ra sự thiệt thòi cho các doanh nghiệp trong nước và thiên vị doanh nghiệp FDI... Các quốc gia đang phát triển khác trong khu vực như Thái Lan, Indonesia hay Malaysia vẫn đang tiếp nhận FDI và họ không hoặc ít gặp phải các vấn đề ở trên hơn so với chúng ta. Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế sẽ dẫn dắt hành vi của người tiêu dùng và doanh nghiệp. Chúng ta không thể kêu gọi người Việt Nam mãi dùng hàng Việt Nam nếu họ nhận thấy rằng hàng nội quá đắt trong khi chất lượng và mẫu mã thua kém hàng ngoại. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ không bỏ vốn đầu tư mở rộng sản xuất trong một lĩnh vực nào đó nếu họ nhận thấy rằng suất lợi nhuận của việc sản xuất là thấp hơn so với suất lợi nhuận của việc làm thương mại (nhập khẩu), hay thậm chí là thấp hơn so với lãi suất tiết kiệm. Do vậy, để lấy được năng lực cạnh tranh, Việt Nam cần phải tạo ra các khuyến khích để người tiêu dùng và doanh nghiệp tự nguyện tham gia vào quá trình tạo ra giá trị. Những khuyến khích này phải bắt đầu bằng việc kiên nhẫn duy trì một môi trường vĩ mô ổn định với lạm phát và lãi suất thấp. Bên cạnh đó, chúng ta cũng biết rằng mỗi doanh nghiệp FDI khi vào Việt Nam đều là những doanh nghiệp có thế mạnh trong lĩnh vực hoạt động của họ, và Việt Nam không thể dàn trải nguồn lực ra để cạnh tranh trên mọi lĩnh vực được. Do vậy, thay vì hô hào khẩu hiệu hay khoanh tay đứng nhìn sự thống lĩnh của doanh nghiệp FDI, chúng ta cần có những hành động thiết thực và cụ thể. Nhưng hành động ở đây không có nghĩa là cản trở hay ứng xử với doanh nghiệp FDI như một hiện tượng xấu, mà thay vào đó mỗi bộ/ngành cần phải rà soát đánh giá lại một cách chính xác năng lực cạnh tranh của ngành mình dựa trên các điều kiện về yếu tố sản xuất, cầu về sản phẩm, công nghiệp hỗ trợ và liên quan, cấu trúc ngành... như lý thuyết về lợi thế cạnh tranh đã chỉ ra. Chính phủ có nhiệm vụ xác định những ngành mà Việt Nam thực sự có lợi thế để có những chính sách hướng nguồn lực của nền kinh tế dịch chuyển vào những ngành này thông qua hệ thống khuyến khích thuế và ưu đãi khác. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần rà soát lại chính sách thuế và ưu đãi khác khác giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước để tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa hai nhóm doanh nghiệp này. TS. Phạm Thế Anh |