Chủ Nhật, 17/08/2025
31.1 C
Ho Chi Minh City

Bán carbon nhưng phải giữ rừng và giữ quyền

Hồng Văn

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

A.I

(KTSG Online) - Thị trường tín chỉ carbon rừng mở ra nguồn thu tỉ đô, nhưng nếu thiếu khung bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích cộng đồng, “bán carbon” có thể thành bán cả quyền giữ rừng, đánh mất lợi ích của cộng đồng dân cư địa phương và rất nhiều tranh chấp nổ ra liên quan carbon rừng và cộng đồng trên thế giới.

Lợi ích và áp lực giữ rừng lâu dài

Trong chiến lược ứng phó biến đổi khí hậu, rừng không chỉ là “lá phổi xanh”, mà còn là tài sản có thể tạo dòng tiền. Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm ước tính, nếu thị trường tín chỉ carbon rừng vận hành thông suốt, Việt Nam có thể thu hàng trăm triệu đô la mỗi năm từ việc bán quyền giảm phát thải khí nhà kính. Nguồn thu này đến từ lượng hấp thụ và lưu giữ carbon của hơn 14,7 triệu héc ta rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên ở miền Trung, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.

Tấm áo giáp rừng ngập mặn Cần Giờ. Ảnh: H.P

Nhưng “bán carbon” đồng nghĩa với việc phải giữ rừng nguyên trạng hoặc nâng chất lượng rừng trong suốt thời gian cam kết, thường 20-40 năm. Bất kỳ suy giảm diện tích hoặc chất lượng rừng nào cũng khiến tín chỉ mất giá hoặc bị nhà phát triển (nói nôm na là doanh nghiệp, tổ chức đầu tư tiền của cho quá trình đo đếm, xây dựng dự án xác minh carbon) yêu cầu hoàn trả. Áp lực này càng lớn với những địa phương đang đối diện cháy rừng, khai thác trái phép và chuyển đổi đất rừng nghèo sang đất trồng hoa màu.

Tại hội thảo tham vấn Dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng ngày 15-8-2025, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết dự thảo cho phép các chủ rừng hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát triển dự án carbon rừng. Đây là cơ hội huy động vốn lớn, tiếp cận công nghệ đo đạc và quản lý carbon chuẩn quốc tế.

Những hợp đồng như ERPA (Emission Reductions Purchase Agreement) của dự án rừng Bắc Trung Bộ – bán 10,3 triệu tín chỉ cho Ngân hàng Thế giới – đã đem lại hơn 51 triệu đô la, tạo động lực cho các địa phương có rừng trong nước nhấp nhỏm muốn tham gia bán tín chỉ carbon. Nhưng hợp tác quốc tế cũng tiềm ẩn rủi ro dài hạn: hợp đồng tín chỉ thường gắn với quyền khai thác lợi ích từ rừng trong vài thập kỷ. Nếu điều khoản lỏng lẻo, bên mua có thể can thiệp sâu vào phương án quản lý hoặc ép giá.

Lắm bài học đau lòng từ tín chỉ carbon

Kinh nghiệm châu Phi cho thấy rủi ro mất quyền từ các cam kết carbon kéo dài. Một quốc gia châu Phi từng ký hợp đồng chuyển nhượng khoảng 10.931 km² rừng cho một công ty để bảo vệ rừng và đổi lấy tín chỉ. Cộng đồng bản địa không được tham vấn, thiếu bảo vệ pháp lý, dẫn đến nguy cơ mất quyền tiếp cận đất truyền thống.

Một dự án rừng khác bị tòa án tuyên vi phạm pháp luật vì triển khai bảo tồn mà không tham vấn đủ cộng đồng, khiến người dân mất quyền tiếp cận đồng cỏ và quyền thừa kế. Một cộng đồng dân cư khác ở châu lục này cáo buộc người mua carbon dùng mục tiêu carbon để cưỡng chế, phá bỏ nhà và hạn chế quyền sử dụng đất rừng truyền thống.

Nhiều người am hiểu gọi đây là “carbon colonialism” – bảo tồn dưới danh nghĩa carbon nhưng xâm lược quyền lợi người bản địa. Những vụ việc này cho thấy, nếu khung pháp lý không bảo vệ quyền sử dụng và sở hữu rừng, hợp đồng carbon có thể biến thành công cụ tước quyền của chính những người gìn giữ rừng.

Lợi ích cộng đồng: ai được gì từ carbon

Giải pháp là xây dựng hợp đồng mẫu, quy định rõ quyền – nghĩa vụ của các bên, kèm điều khoản bảo vệ quyền sở hữu và quyền sử dụng rừng của Việt Nam. Mọi hợp tác quốc tế cần đăng ký và được thẩm định rủi ro chủ quyền tài nguyên trước khi ký.

Tín chỉ carbon rừng là thành quả của nỗ lực bảo vệ và phát triển rừng – công việc gắn liền với cộng đồng địa phương, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Nếu thiếu cơ chế phân chia lợi ích hợp lý, khó duy trì sự tham gia của họ.

Một hóa đơn bán tín chỉ carbon của 1 dự án điện gió có giá 1,8 euro/tín chỉ, vì lý do bảo mật, chúng tôi đã làm mờ thông tin người bán và người mua.

Kinh nghiệm từ các dự án thí điểm cho thấy tỷ lệ lợi ích cho cộng đồng còn thấp; nhiều nơi chỉ nhận khoản hỗ trợ nhỏ sau khi trừ chi phí quản lý, khiến động lực bảo vệ rừng yếu đi, thậm chí phát sinh mâu thuẫn giữa chủ rừng và người dân quanh rừng.

Một thị trường carbon rừng bền vững cần nguyên tắc “chia đều gánh nặng và quyền lợi”: cộng đồng tham gia bảo vệ rừng phải nhận phần lợi ích tương xứng, không chỉ bằng tiền mặt mà còn qua đầu tư hạ tầng, giáo dục, sinh kế thay thế. Cơ chế giám sát độc lập có đại diện cộng đồng sẽ giúp minh bạch và giảm thất thoát nguồn thu.

Brazil, Indonesia và Papua New Guinea đã có hơn một thập kỷ tham gia thị trường tín chỉ carbon rừng. Họ đều trải qua ba bước: khởi động bằng dự án thí điểm với hỗ trợ quốc tế; xây dựng tiêu chuẩn quốc gia; và mở rộng sang thị trường bắt buộc và tự nguyện.

Hai yếu tố quyết định giá tín chỉ là chất lượng dữ liệu carbon và uy tín pháp lý của thị trường. Indonesia, sau khi bị chỉ trích thiếu minh bạch, đã cải cách toàn bộ hệ thống đo đạc – báo cáo – thẩm định (MRV) và lập sàn giao dịch carbon quốc gia để tập trung quản lý.

Với Việt Nam, cần sớm xây dựng hệ thống MRV đồng bộ, chuẩn quốc tế, đồng thời ban hành quy định rõ về quyền sở hữu và chuyển nhượng tín chỉ. Thị trường phải minh bạch, tránh giao dịch “ngầm” ngoài sàn gây thất thu và mất uy tín.

Nếu làm tốt, Việt Nam vừa bán được tín chỉ carbon rừng với giá cao, vừa giữ được rừng và giữ được quyền, từ quyền sử dụng đất đến quyền định đoạt giá trị tài nguyên xanh.

Thực tế từ các dự án thí điểm REDD+ và ERPA cho thấy, chỉ riêng khâu thẩm định kỹ thuật và pháp lý đã mất từ 12 đến 18 tháng. Nếu cộng thêm các vòng xác minh và phê duyệt giao dịch, thời gian để một tín chỉ carbon “ra thị trường” có thể kéo dài 3-4 năm. Với chu kỳ dài như vậy, dòng tiền kỳ vọng bị trì hoãn, trong khi chi phí vận hành dự án vẫn phải chi liên tục.

Một dự án carbon rừng phải trả nhiều loại chi phí: khảo sát, đo đạc, báo cáo định kỳ, thuê tổ chức thẩm định độc lập, phí đăng ký tín chỉ… Ở các nước đã có thị trường phát triển, chi phí giao dịch chiếm 15 - 20% tổng doanh thu. Nhưng chi phí này tại Việt Nam có thể lên tới 30 - 40%, đặc biệt với các dự án quy mô nhỏ.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới