Thứ Năm, 4/12/2025
32.8 C
Ho Chi Minh City

Đừng để quyền tác giả bị hy sinh trong cuộc đua AI

Lê Vũ Vân Anh (*)

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) - Việt Nam đang đứng trước một quyết định chính sách mang tính bước ngoặt: có nên hợp pháp hóa hoạt động “khai thác dữ liệu bằng máy” (Text and Data Mining - TDM) đối với mọi tác phẩm, cho mục đích huấn luyện AI mà không cần xin phép chủ thể quyền tác giả? Đây không chỉ là câu hỏi kỹ thuật. Nó động chạm trực tiếp đến quyền tài sản của người sáng tạo, đến tương lai của ngành sáng tạo, và đến cách Việt Nam định vị mình trong cuộc đua công nghệ AI toàn cầu.

Đầu tiên, cần phải nói rằng ngoại lệ TDM trong quyền tác giả không phải là một “sáng kiến” của Việt Nam mà đã xuất hiện trong luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên cho tới giờ phút này, chưa nước nào cho phép ngoại lệ này áp dụng với AI.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam có vẻ sẵn sàng cho một bước đi táo bạo khi cân nhắc cho phép các hệ thống AI sử dụng “các nguồn dữ liệu đã được công bố” để huấn luyện mô hình mà không cần xin phép, không cần trả tiền, miễn là: 1. Không sao chép hay khai thác thương mại tác phẩm gốc; 2. Không gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tác giả.

Nghe qua có vẻ vô hại. Nhưng thực chất đây là một lỗ hổng pháp lý khổng lồ.

Điều khoản nhỏ, rủi ro lớn

Để huấn luyện, AI phải sao chép toàn bộ dữ liệu đầu vào, tức là toàn bộ tác phẩm văn học, âm nhạc, tranh, phim, báo chí, hình ảnh… có thể bị hút vào kho dữ liệu của công ty AI mà không ai được thông báo, không ai được trả tiền.

Không thể đánh đồng việc “AI đọc như con người”. Một người đọc sách không tạo ra bản sao toàn bộ dữ liệu để phân tích. AI thì có. Hành vi cung cấp dữ liệu cho AI về bản chất là sao chép, và sao chép không xin phép là xâm phạm quyền tác giả.

Nhưng dự luật lại chỉ yêu cầu “không gây thiệt hại”. Vậy thiệt hại là gì? Ai đánh giá? Dựa vào tiêu chí nào? Dự thảo không hề nói. Trong khi đó, thực tiễn xét xử SHTT tại Việt Nam đã xác nhận, chứng minh thiệt hại đã khó trong các vụ vi phạm thông thường, thì làm sao có thể chứng minh thiệt hại trong trường hợp hệ thống AI âm thầm sử dụng hàng triệu tác phẩm?

Đây là một rủi ro nghiêm trọng. Nếu quy định được thông qua, thiệt hại là nhãn tiền: (i). Mô hình AI được huấn luyện từ chính tác phẩm gốc rồi sinh ra nội dung cạnh tranh trên thị trường. (ii). Thu nhập từ việc bán tác phẩm gốc có thể bị giảm mạnh hoặc bị thay thế. (iii). Tác giả bị xóa nhòa dấu ấn sáng tạo khi AI tái tạo hoặc phỏng theo phong cách của họ. (iv). Người tiêu dùng bị nhầm lẫn: đâu là tác phẩm thật, đâu là nội dung máy móc phái sinh.

Không thể tuyên bố “không thiệt hại” khi tác phẩm của tác giả trở thành nhiên liệu miễn phí cho ngành AI, một ngành đang có doanh thu hàng tỉ đô la Mỹ.

Đại biểu Quốc hội Thu Đông đã nêu vấn đề rất thẳng thắn: Quy định nói trên không giới hạn phạm vi dữ liệu, không yêu cầu minh bạch, không có cơ chế giám sát và không có cơ chế xác định thiệt hại(1). Hay nói cách khác, nếu điều khoản này được thông qua, các công ty AI hoàn toàn có thể thu thập dữ liệu hàng loạt từ mọi nguồn đã công bố, từ bài báo bạn viết 10 năm trước đến những bức tranh bạn đăng trên mạng.

Nếu bên xâm phạm là con người, chúng ta có thể yêu cầu họ chấm dứt hành vi xâm phạm. Nhưng nếu đó là AI, điều này gần như không thể. Một khi mô hình đã được đào tạo bằng dữ liệu, không gì có thể “ngăn chặn” được thiệt hại. Tác phẩm của bạn trở thành “nhiên liệu” vĩnh viễn cho những cỗ máy tạo nội dung không biết mệt. Khi các mô hình đã được huấn luyện bằng hàng triệu bản sao tác phẩm, chúng hấp thụ chi tiết, phong cách, cấu trúc và giọng văn của tác giả. Khi đó, chúng ta không thể “rút dữ liệu ra”; không thể xác định tác phẩm nào bị dùng; không thể yêu cầu mô hình “quên đi”. Một khi sai lầm chính sách xảy ra, hệ quả có thể kéo dài hàng thập kỷ. Đây là lý do nhiều nước dù có năng lực công nghệ vượt trội vẫn vô cùng thận trọng.

Ngoại lệ TDM: Có thực sự cần thiết cho sự phát triển AI?

Pháp luật SHTT nói chung và bản quyền nói riêng khuyến khích bất kỳ ai có nhu cầu sử dụng các sản phẩm có bản quyền có thể xin cấp phép và trả tiền cho chủ thể quyền. Vậy nên, điều cần làm trong thời điểm này là đưa ra các biện pháp giúp cho thị trường cấp phép diễn ra hiệu quả thay vì ngay lập tức tạo ra ngoại lệ quá rộng như đã nói trên. Trên thế giới, thị trường cấp phép bản quyền cho việc huấn luyện AI ngày càng sôi động, các giao dịch đã và đang diễn ra thường xuyên.

Không thể đánh đồng việc “AI đọc như con người”. Một người đọc sách không tạo ra bản sao toàn bộ dữ liệu để phân tích. AI thì có. Hành vi cung cấp dữ liệu cho AI về bản chất là sao chép, và sao chép không xin phép là xâm phạm quyền tác giả.

Hơn nữa, việc cho rằng đưa ra ngoại lệ TDM sẽ giúp công nghệ AI ở Việt Nam phát triển nhanh hơn là một nhận định vội vàng và thiếu kiểm chứng. Tại Mỹ, báo cáo của Cục Bản quyền, được công bố vào tháng 5-2025 bác bỏ ý kiến rằng việc huấn luyện AI tạo sinh nói chung có thể được hưởng ngoại lệ “sử dụng hợp lý” (fair use). Các phán quyết của các tòa án tại Mỹ cũng chưa từng ghi nhận việc dùng các nội dung có bản quyền để huấn luyện AI là một trường hợp sử dụng hợp lý. Mới đây, ngày 27-10-2025, Chính phủ Úc cũng xác nhận sẽ không đưa ngoại lệ TDM vào Luật Bản quyền của nước này.

Các nền kinh tế lớn còn đang “dè dặt” từng bước. Việt Nam chưa có cơ chế giám sát AI, chưa xây dựng hệ thống đăng ký dữ liệu, chưa có cơ chế bồi thường, vậy cớ sao lại vội vã mở cửa ở mức rộng nhất? Chưa kể, mặc dù hiện nay không có bất kỳ ngoại lệ nào nhưng ngành công nghiệp AI vẫn đang phát triển như vũ bão. Vì lẽ đó, lập luận cho rằng huấn luyện AI cần ngoại lệ TDM hoàn toàn không thuyết phục.

Tác giả phải hy sinh cho ngành AI cất cánh?

Những người làm sáng tạo đầu tư thời gian, công sức và tài chính để tạo ra tác phẩm. Họ phải mua tài liệu và mua bản quyền từ các tác phẩm có trước. Ngay cả sinh viên muốn học cũng phải mua sách. Vậy tại sao các doanh nghiệp AI với nguồn vốn và tiềm năng khổng lồ lại được miễn trả tiền bản quyền? Ở đâu trong logic pháp luật cho phép một ngành công nghiệp được hưởng lợi trên lưng ngành công nghiệp sáng tạo?

Như Đại biểu Quốc hội Trần Hồng Nguyên đã nhận xét: “Việc các nhà phát triển AI đàm phán và mua giấy phép sử dụng các sản phẩm có bản quyền cũng giống như việc bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải chi trả cho các nguyên liệu đầu vào. Và nếu nguyên liệu đầu vào đó quan trọng với hoạt động của doanh nghiệp, nó cần phải được trả giá tương xứng”(2).

Ông Tào Minh Hùng, Giám đốc Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế (IFPI) tại Việt Nam, cũng nhấn mạnh rằng “việc phát triển AI dựa trên đầu vào là các sản phẩm có bản quyền như văn học, phim ảnh hay âm nhạc hoàn toàn không nhằm tạo ra những sản phẩm đầu ra (output) giải quyết những thứ cấp thiết của xã hội - càng không có lý do chính đáng để ngành sáng tạo phải “trợ cấp” cho các nhà phát triển AI.

Việc buộc ngành sáng tạo phải “trợ cấp” cho phát triển AI còn không thỏa đáng ở chỗ sản phẩm đầu ra (output) của AI sẽ quay trở lại thị trường và cạnh tranh với chính các sản phẩm đầu vào (input) chính là những sản phẩm có bản quyền. Vô hình trung, ngành sáng tạo phải hy sinh cho thứ sẽ là đối thủ cạnh tranh của chính họ”(3).

Dưới góc độ chính sách và cân bằng trong phân chia lợi ích - rủi ro, có thể thấy rằng nhà nước đang dùng một ngoại lệ rất rộng để giảm chi phí dữ liệu và rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp làm AI. Nhưng điều này lại đẩy phần lớn rủi ro sang giới sáng tạo - những người hầu như không có quyền lựa chọn, không biết tác phẩm của mình được dùng ra sao, cũng không có con đường rõ ràng để đòi bồi thường khi bị thiệt hại. Nếu điều khoản này được thông qua ở dạng hiện tại, cấu trúc phân phối lệch như vậy sẽ bị “khóa cứng” trong luật trong nhiều năm tới, rất khó sửa theo hướng có lợi hơn cho người sáng tạo.

Về thực chất, đây là một kiểu phân phối ngược: lao động sáng tạo bị biến thành một dạng “ưu đãi bằng luật” cho chi phí huấn luyện mô hình. Nếu coi đó là chính sách hỗ trợ cho AI, thì câu hỏi tối thiểu là: tại sao lại chọn cách hỗ trợ bằng một thứ “thuế ẩn” đánh lên cộng đồng sáng tạo, thay vì một cơ chế minh bạch và chia sẻ gánh nặng công bằng hơn? Lập luận “AI học như con người nên không cần xin phép” trong bối cảnh này chỉ làm mờ đi trách nhiệm của những chủ thể đang thu lợi thương mại từ việc đó. Nếu thực sự nghiêm túc với khẩu hiệu “Phát triển AI nhưng không đánh đổi bản quyền sáng tạo”, thì tối thiểu phải có quyền cho phép hay từ chối của tác giả, nghĩa vụ công khai ở mức hợp lý về nguồn dữ liệu huấn luyện, và một cơ chế để chia sẻ phần giá trị mà AI tạo ra với chính cộng đồng sáng tạo.

Phát biểu của Bộ Khoa học và Công nghệ rằng “cách chúng ta ứng xử như thế nào với trí tuệ con người, thì nên ứng xử như vậy đối với AI” là một phép ẩn dụ sai về bản chất kỹ thuật và pháp lý. AI không phải con người. AI không có quyền nhân thân. AI không biết lao động, không biết sáng tạo, không cần động lực, không chịu trách nhiệm pháp lý. Nếu chính sách được xây dựng dựa trên một quan niệm sai, hậu quả sẽ vô cùng lớn.

Hệ quả lâu dài: một nền văn hóa bị bào mòn

Hãy tưởng tượng 5-10 năm tới, nội dung AI tràn ngập thị trường, cạnh tranh trực tiếp với tác phẩm của con người. Việt Nam bỗng dưng trở thành quốc gia dễ dãi về bảo vệ quyền tác giả. Tác giả không còn động lực sáng tạo vì tác phẩm của họ bị sử dụng không phép, và hệ quả tất yếu là các ngành văn hóa và nghệ thuật dần suy yếu.

Đây không chỉ là chuyện pháp lý, mà là chuyện tương lai văn hóa Việt Nam. Ngoại lệ mà dự thảo đưa ra là một quyết định gây ảnh hưởng trực tiếp đến hàng triệu người làm sáng tạo. Mới đây thôi, Thủ tướng ban hành Quyết định 2486/QĐ-TTg ngày 14-11-2025 phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với nhiệm vụ trọng tâm là “tăng cường bảo hộ sáng tạo trí tuệ đối với các sản phẩm công nghiệp văn hóa”. Nhưng việc nới lỏng không kiểm soát quyền sử dụng dữ liệu để huấn luyện AI sẽ tạo ra một cú đánh trực diện vào hệ sinh thái sáng tạo của Việt Nam. Chúng ta không phản đối AI. Chúng ta ủng hộ đổi mới nhưng đổi mới không thể được xây dựng trên sự đánh đổi quyền lợi của tác giả.

AI không còn là chuyện của riêng ai. Nếu dự thảo được thông qua, những người làm nghề SHTT, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo, nhiếp ảnh gia, các nhà xuất bản, hãng phim, công ty âm nhạc dù muốn hay không cũng có thể trở thành nạn nhân bị tước mất “tài sản vô hình” do mình tạo ra. Đến khi nhận ra tác phẩm của mình đã bị dùng miễn phí cho hàng trăm mô hình AI, mọi lời phản đối đều đã muộn. Công chúng, những người tiêu dùng nội dung văn hóa, cũng sẽ chịu cảnh lẫn lộn và mơ hồ trong hành trình truy xuất đến phiên bản gốc.

AI có thể phát triển, nhưng không thể bằng việc tước đoạt giá trị của người sáng tạo. Luật pháp vốn dĩ là để tạo ra sự công bằng, tạo ra một môi trường sáng tạo để những nhà sáng tạo của Việt Nam tạo ra những sản phẩm xứng tầm vóc. Và để làm được điều đó, ngoại lệ TDM cần được xem xét lại một cách nghiêm túc và ngay lập tức.

(*) Giảng viên môn luật SHTT, Đại học Durham (Vương quốc Anh)

(1) https://daibieunhandan.vn/du-thao-luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-luat-so-huu-tri-tue-khong-de-lao-dong-sang-tao-tro-thanh-nguon-tai-nguyen-mien-phi-10396983.html

(2) Trang FB của Đoạn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng, https://www.facebook.com/doandaibieuquochoitinhlamdong/posts/pfbid032UXUV5zFLZJwSrMFqedcCKwcBind6xcLCtP6qpt9WwgFrFZHjUmF5V6DY4KbCrKUl?rdid=RSA3emKHwqoK8rlE# (truy cập ngày 26-11-2025)

(3) https://cand.com.vn/Tieu-diem-van-hoa/nganh-am-nhac-va-nhung-thach-thuc-tu-ai-i788766/ truy cập ngày 26/11/2025)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới