Indonesia: cường quốc đang nổi lên
Phương Huỳnh
![]() |
Thành phố Jakarta, Indonesia. |
(TBKTSG) - Nền kinh tế Indonesia, đã sụp đổ hồi mười năm trước, ngày nay lại có cấu trúc vững chãi không ngờ. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á 1997-1998, Indonesia là nước bị thiệt hại nặng nề nhất. Nhưng nước này đã vượt qua cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay khá tốt.
Thăng trầm kinh tế Indonesia
Năm 1998, khi Tổng thống Suharto bị lật đổ, kinh tế Indonesia cũng đổ theo. Tổng sản lượng GDP năm đó giảm 13%, giá trị đồng rupiah giảm từ 2.000 rupiah ăn 1 đô la Mỹ năm 1997 xuống 17.000 rupiah ăn 1 đô la.
Hệ thống tài chính sụp đổ và 68 ngân hàng bị đóng cửa. Tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng đã tiêu tốn của chính phủ 88 tỉ đô la Mỹ, tương đương 70% GDP. Nhiều doanh nghiệp oằn lưng dưới gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Hàng chục triệu người dân rơi vào cảnh nghèo đói.
Nhưng kinh tế Indonesia phục hồi nhanh hơn mong đợi. Trong giai đoạn 2003-2007, kinh tế tăng trưởng trung bình hàng năm 5,4%, tuy chưa bằng mức trung bình 6,5%/năm suốt ba thập niên dưới quyền Tổng thống Suharto, nhưng đã rất đáng nể. Đến năm 2005, GDP đầu người của Indonesia đã trở về mức trước khủng hoảng 1997. Hiện nay GPD đầu người của Indonesia là 2.200 đô la/người/năm, cao hơn Philippines hay Sri Lanka.
Thế rồi cuộc suy thoái toàn cầu bùng nổ. Ở thời điểm tháng 10-2008, người ta cho rằng sự sụp đổ của kinh tế Indonesia chỉ là vấn đề thời gian. Trong vài tuần, giá trị đồng rupiah giảm một phần ba so với đô la Mỹ, và trong chưa đầy hai tháng, chỉ số chứng khoán Jakarta giảm 49% - mức giảm nặng nề thứ hai ở châu Á, chỉ sau thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nhưng lần này, cơn bão qua nhanh. Trong nửa đầu năm nay 2009, thị trường chứng khoán Jakarta lai tăng mạnh hơn tất cả thị trường châu Á, chỉ sau Mumbai (Ấn Độ) và Thượng Hải (Trung Quốc). Ngay cả vụ đánh bom khủng bố vào hai khách sạn sang trọng ở Jakarta hồi tháng 7, làm 7 người thiệt mạng, cũng không thể làm lay chuyển niềm tin của nhà đầu tư: trong bốn tuần lễ tiếp sau vụ khủng bố, chỉ số chứng khoán tăng 12,75% và lượng du khách quốc tế không có dấu hiệu suy giảm. Đến giữa năm 2009, đồng rupiah đã một lần nữa lấy lại những gì đã mất so với đồng đô la Mỹ.
Trong nửa đầu năm nay, tăng trưởng GDP của Indonesia là 4,2%, thấp hơn mức gần 8% của Trung Quốc và 6% của Ấn Độ, song trong hoàn cảnh cuộc khủng hoảng vẫn đang hoành hành, đây là một thành tích đáng nể.
Một hình mẫu mới
Indonesia có thể chống đỡ cuộc khủng hoảng này khá dễ dàng vì tăng trưởng kinh tế của nước này dựa nhiều vào tiêu dùng nội địa hơn là vào xuất khẩu. Xuất khẩu của Indonesia năm ngoái chỉ bằng 25% GDP, so với hơn 100% ở Malaysia. Hơn nữa, xuất khẩu của Indonesia chủ yếu là dầu thô, khí đốt và ngày càng nhiều dầu cọ và than đá, vì thế nước này không phải đương đầu với hiện tượng các doanh nghiệp xả hàng tồn kho đột ngột và nhanh chóng, dẫn tới sự sụp đổ thương mại hàng hóa ở châu Á vào cuối năm 2008.
Theo Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsen, vào cuối quí 2 vừa qua, niềm tin của người tiêu dùng Indonesia đạt mức cao nhất trong bảy năm qua, và cao hơn 28 quốc gia được khảo sát. Cũng theo khảo sát, khối dân khổng lồ của Indonesia - 235 triệu người, vẫn tiếp tục chi tiêu, dù có phần dè sẻn hơn trước. Những nỗ lực kích cầu của chính phủ, chẳng hạn như phát tiền cho người nghèo, miễn học phí và trợ giá lúa gạo cho một phần ba dân số nghèo nhất, tỏ ra rất thành công.
![]() |
Những dữ liệu về doanh số tiếp tục tăng mạnh của các tập đoàn đa quốc gia như Unilever hoặc Danone chứng minh cho xu thế này. Trong khi doanh số xe hơi và xe gắn máy - thước đo tài sản của giới trung lưu đô thị ở Indonesia - bị giảm 30% vào năm ngoái, xu thế giảm này đã bắt đầu đảo ngược lại.
Nhưng theo bà Sri Mulyani Indrawati, Bộ trưởng Tài chính trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Yudhoyono, sức bền của Indonesia có thể được giải thích bằng nhiều cách “đúng đắn hơn” hơn là chỉ quy vào sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu hạn chế của nền kinh tế này. Bà cho rằng, điều căn bản chính là những cuộc cải cách mà chính phủ nước này tiến hành - chẳng hạn như cải cách tư pháp, đơn giản hóa các quy định và thủ tục, cải cách hành chính và thay đổi phương thức chi tiêu của chính phủ bằng việc cắt giảm trợ cấp và tăng đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng.
Sự quản lý đúng đắn của chính phủ và ngân hàng trung ương đối với nền kinh tế, là một yếu tố tích cực; trong đó nổi bật nhất là chính sách thắt chặt tài khóa. Ông Wolfgang Fengier của Ngân hàng Thế giới nói rằng thành tích đáng kể của Indonesia là đã cắt giảm nợ công, từ mức 80% GDP năm 1999 xuống còn 30% vào cuối năm 2008. Gần đây, thâm hụt ngân sách của chính phủ Indonesia chỉ là 1% GDP, thấp hơn con số được quốc hội cho phép là 3%. Trong năm 2008, ngân sách gần như cân bằng. Để ứng phó với sự suy giảm toàn cầu, thâm hụt ngân sách năm nay của Indonesia sẽ được phép tăng lên 2,5% GDP, một con số rất khiêm tốn so với chuẩn quốc tế. Trong kế hoạch ngân sách cho năm tới, tỷ lệ thâm hụt sẽ giảm xuống còn 1,6%.
Tháng 3 vừa qua, Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) nói rằng, Indonesia - cùng với Nam Phi - có thể đứng thêm vào nhóm BRIC để trở thành BRIICS - gồm Brazil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Indonesia, Trung Quốc (China) và Nam Phi (South Africa). Tập đoàn đầu tư chứng khoán CLSA vừa phát hành một báo cáo, nói rằng trục Chindia (Trung Quốc-Ấn Độ) nên được mở rộng thành Chindonesia (Trung Quốc-Ấn Độ-Indonesia); còn Ngân hàng Standard Chartered nhận định Indonesia là cường quốc đang nổi lên ở châu Á…
Thách thức nằm ở con người
![]() |
Tuy nhiên, dù triển vọng ngắn hạn rất sáng sủa nhưng trung và dài hạn vẫn còn nhiều mây đen bao phủ trên nền kinh tế Indonesia.
Trong bài diễn văn thắng cử mới đây, Tổng thống Yudnoyono nói rằng ưu tiên hàng đầu trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của ông là “hạ tầng, hạ tầng và hạ tầng”. Ông không chỉ đề cập tới cơ sở hạ tầng “cứng”- chẳng hạn như nhà máy điện, đường bộ, hải cảng và đường sắt - mà Indonesia đang rất cần, mà cả cơ sở hạ tầng “mềm” và hạ tầng xã hội.
Giới phân tích dự báo, chỉ riêng cơ sở hạ tầng cứng, Indonesia cần phải đầu tư hơn 360 tỉ đô la Mỹ vào năm 2020, gấp 11 lần mức đầu tư của Việt Nam. Mà môi trường kinh doanh của Indonesia chưa thật hấp dẫn vốn đầu tư tư nhân; theo xếp hạng hàng năm về môi trường kinh doanh do Ngân hàng Thế giới lập, Indonesia có vị trí 129 trong 181 nền kinh tế được khảo sát.
Một lĩnh vực cần được đầu tư là phát triển con người. Các “thông số phát triển con người” mà World Bank đưa ra cho thấy, tình hình ở Indonesia thật sự nghiêm trọng, mặc dù đã có tiến bộ đáng kể trong 30 năm qua. Vào năm 1980, tuổi thọ trung bình của người dân Indonesia là 52 tuổi, và 10% em bé sinh ra không sống sót qua sinh nhật đầu tiên. Ngày nay, tuổi thọ trung bình đã được nâng lên 68 tuổi, tỷ lệ tử vong sơ sinh chỉ còn 26 phần ngàn, nhưng vẫn tệ hơn nhiều so với các nước láng giềng có thu nhập thấp hơn.
Chi tiêu cho sức khỏe cộng đồng chẳng hạn, hiện ít hơn 1% GDP, là quá thấp so với các nước khác trong khu vực. Và có quá ít bác sĩ - 21 bác sĩ cho mỗi 100.000 dân, quá ít theo tiêu chuẩn quốc tế. Một vấn đề căn cơ hơn nữa là các nguồn lực này không được phân bổ đồng đều trên khắp quần đảo, được điều hành kém cỏi, đôi khi còn tham nhũng. Các tiêu chuẩn đào tạo và quản lý các bác sĩ hết sức tệ hại.
Trong giáo dục, ưu điểm của Indonesia là tỷ lệ biết chữ của người dân rất cao. Hiến pháp nước này yêu cầu phải dành một phần năm ngân sách quốc gia cho giáo dục nhưng mục tiêu này chưa bao giờ đạt được, dù phần lớn trẻ em đã được đi học miễn phí. Sự cần thiết bây giờ là giáo viên phải được đào tạo tốt hơn, có biện pháp giúp đỡ trẻ em ở vùng sâu vùng xa nghèo đói và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Năm nay, số học sinh đăng ký vào lớp 1 chiếm tới 95% số trẻ em đến tuổi đi học, nhưng tỷ lệ học sinh trung học và đại học ở Indonesia còn quá thấp: 60% và 17%, so với 69% và 29% ở Malaysia.
Khó khăn của Indonesia không phải là thiếu tiền để đầu tư vào y tế và giáo dục, mà theo lời bà Mulyani, “không có khả năng chi tiêu”. Chính phủ trung ương chưa bao giờ giỏi trong việc chi tiêu khoản ngân sách được phân bổ và chính quyền địa phương thì còn tệ hơn. Nhiều người ngồi trên đống tiền bởi vì họ thiếu cái mà bà gọi là “khả năng điều hành và tổ chức” để đầu tư một cách đúng đắn vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội. Chiến dịch chống tham nhũng gần đây có thể làm cho người ta thêm ngần ngại: trong một hệ thống trì trệ, không làm gì cả thì ít bị nghi ngờ hơn là làm nhiều.
(Tổng hợp từ Economist và Financial Times)