(KTSG) - Ba năm qua, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã tạo ra những thay đổi rõ rệt trong quản lý và nhận thức xã hội. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện, tỷ lệ xử lý rác thải và nước thải tăng mạnh, kinh tế tuần hoàn bắt đầu hình thành.
Tuy nhiên, quá trình thực thi vẫn còn nhiều bất cập: ô nhiễm chưa được kiểm soát triệt để, hạ tầng yếu và nguồn lực đầu tư còn hạn chế.
- ‘Chốt’ mức thuế bảo vệ môi trường với xăng, dầu trong năm 2025
 - Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu đến hết 2024
 

Từ khuôn khổ pháp lý đến hành động cụ thể
Theo Báo cáo giám sát của Quốc hội trình bày ngày 28-10-2025, việc triển khai Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đạt được nhiều kết quả đáng chú ý.
Trong hơn ba năm, các bộ, ngành và địa phương đã ban hành 572 văn bản hướng dẫn, tạo hành lang pháp lý tương đối đồng bộ, giúp chuyển hóa các nguyên tắc pháp lý thành hành động thực tiễn. Ba trong bốn chỉ tiêu môi trường quốc gia đã hoàn thành sớm. Rác thải sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý đạt hơn 97%, gần 95% khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, và độ che phủ rừng vượt 42%.
Các khu công nghiệp trên cả nước đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, truyền dữ liệu về cơ quan quản lý nhà nước theo thời gian thực. 31/47 làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng được khắc phục, cải thiện điều kiện sống của hàng chục ngàn người dân. Theo các đánh giá quốc tế, Việt Nam hiện đứng thứ 54 thế giới về phát triển bền vững, xếp thứ hai trong ASEAN, chỉ sau Thái Lan - một bước tiến rõ rệt so với giai đoạn trước.
Bên cạnh đó, việc phân loại rác tại nguồn đã được triển khai tại một số địa phương. Rác hữu cơ được chuyển đổi thành phân trộn, còn rác vô cơ được tận dụng làm nguyên liệu đốt thu hồi năng lượng. Trong công nghiệp, khoảng 90% chất thải đã được xử lý; tro xỉ nhiệt điện, bùn thải và phụ phẩm hóa chất được tái sử dụng trong xây dựng và sản xuất vật liệu. Những mô hình này đang dần hình thành nền tảng cho kinh tế tuần hoàn.
Công tác ứng phó biến đổi khí hậu cũng có tiến triển. Việt Nam đã ban hành hành lang pháp lý cho kiểm kê khí nhà kính, bảo vệ tầng ozon, và nhiều doanh nghiệp lớn bắt đầu thực hiện kiểm kê phát thải. Ở đồng bằng sông Cửu Long, Đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp là ví dụ cho cách tiếp cận mới: phát triển nông nghiệp hiệu quả hơn về năng lượng, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ô nhiễm không khí vẫn là thách thức lớn
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, việc thực thi luật vẫn bộc lộ không ít hạn chế, trong đó nổi bật là vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị, ô nhiễm nguồn nước và hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường.
Đoàn giám sát của Quốc hội cho rằng, ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM vẫn ở mức cao, có thời điểm chỉ số bụi mịn PM2.5 vượt ngưỡng an toàn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe cộng đồng. Chất lượng nước sông vẫn thấp, đặc biệt trên các lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải và chậm được cải thiện. Chỉ tiêu 100% cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được xử lý theo Nghị quyết Đại hội XIII khó đạt trong năm 2025: hiện cả nước còn 38/435 cơ sở chưa được khắc phục triệt để.
Đặc biệt, hạ tầng kỹ thuật về môi trường cũng đang tụt hậu so với yêu cầu phát triển. Chỉ 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom và xử lý; tỷ lệ chôn lấp rác tuy giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao, nhiều bãi rác không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh. 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn - những con số còn quá thấp so với tốc độ công nghiệp hóa hiện nay.
Một trong những chính sách trọng tâm của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 là việc phân loại, tái chế rác thải sinh hoạt, chưa thực hiện đúng lộ trình. Cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) mới được triển khai thí điểm ở một số lĩnh vực; hạ tầng thu gom, tái chế chất thải điện tử, pin, tấm quang năng vẫn còn rời rạc.
Công nghệ xử lý chất thải vẫn chủ yếu ở mức trung bình, thiếu công nghệ tiên tiến, trong khi thị trường công nghệ môi trường - nơi cung cầu gặp nhau - vẫn chưa hình thành đúng nghĩa. Ở nhiều địa phương, doanh nghiệp vẫn phải vận hành hệ thống cũ kỹ, phát thải cao, tiêu hao năng lượng lớn, gây bất lợi cho chính họ khi tham gia chuỗi cung ứng quốc tế vốn ngày càng yêu cầu tiêu chuẩn xanh.
Một hạn chế khác là nguồn lực tài chính cho môi trường quá hạn chế. Gần hai thập niên qua, chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường chỉ quanh mức 1% tổng chi ngân sách, trong khi nhiều nước ASEAN dành ít nhất 1% GDP, còn các nước phát triển ở mức 3-4% GDP.
Không chỉ ít, nguồn vốn này còn được sử dụng chưa hiệu quả: tình trạng hủy dự toán, giải ngân chậm vẫn xảy ra. Cơ chế “người gây ô nhiễm phải trả tiền” mới vận hành ở quy mô hẹp, chưa đủ mạnh để điều chỉnh hành vi sản xuất, tiêu dùng. Trong khi đó, chính sách khuyến khích xã hội hóa đầu tư chưa hấp dẫn, khiến khu vực tư nhân còn đứng ngoài lĩnh vực hạ tầng môi trường.
Sửa tổng thể Luật Bảo vệ môi trường trong năm 2026
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, vừa tạo áp lực lên môi trường, vừa buộc các quốc gia phải hướng tới nền kinh tế xanh. Thời gian tới, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số, yêu cầu bảo vệ môi trường càng quan trọng và cấp thiết. Nhằm bảo vệ môi trường tốt hơn và đưa đất nước phát triển bền vững hơn, Đoàn giám sát đã đề xuất ba giải pháp đột phá và các nhiệm vụ cấp bách.
Một là, đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế. Trong đó, Đoàn giám sát nhấn mạnh cần loại bỏ quan điểm “bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”; hoàn thiện các công cụ kinh tế như thuế môi trường, phí phát thải, hạn ngạch carbon, và định giá tài nguyên hướng tới nguyên tắc “người hưởng lợi phải đóng góp, người gây ô nhiễm phải chi trả”.
Hai là, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư. Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, nhưng khu vực tư nhân phải trở thành động lực chính. Cần khuyến khích hợp tác công - tư (PPP) trong hạ tầng xử lý rác thải, nước thải; thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon, tận dụng nguồn vốn quốc tế cho các dự án giảm phát thải.
Ba là, đẩy mạnh khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý môi trường, ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để giám sát phát thải, dự báo ô nhiễm và xử lý kịp thời. Đây là nền tảng để hình thành hệ thống quản trị môi trường hiện đại, giảm phụ thuộc vào kiểm tra thủ công và tăng tính chủ động của doanh nghiệp.
Trước mắt, từ nay đến cuối năm 2026, Đoàn giám sát đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 để trình Quốc hội xem xét, đồng thời chuẩn bị đánh giá toàn diện và sửa đổi sâu hơn vào năm 2026. Rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường để mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới nhưng kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế đơn thuần. Song song đó, cần ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý chất lượng không khí giai đoạn 2025-2030, tập trung giảm ô nhiễm tại các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và TPHCM.
Sau ba năm thực thi Luật Bảo vệ môi trường 2020, Việt Nam đã tạo được nền tảng quan trọng cho quá trình “xanh hóa” nền kinh tế. Song chặng đường phía trước đòi hỏi nhiều hơn thế: sự kiên định về chính sách, nhất quán trong thực thi, và khát vọng hướng tới một nền kinh tế xanh thực chất, nơi mỗi bước phát triển đều gắn với chất lượng sống của người dân.
 