Thứ Năm, 5/06/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Khó có 5 thương hiệu AI uy tín vào năm 2025

Mộc Linh

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

A.I

(KTSG) - Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) đến năm 2030 đặt mục tiêu xây dựng được 5 thương hiệu AI có uy tín trong khu vực vào năm 2025. Tới thời điểm này, khó có thể tự tin chúng ta đạt được cột mốc này, vì vậy, rất cần có những sự điều chỉnh phù hợp về chính sách.

Báo cáo “Chính sách về trí tuệ nhân tạo ở Việt Nam: Cân bằng giữa thúc đẩy phát triển và kiểm soát rủi ro” của nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển truyền thông (IPS) đã phác thảo hiện trạng và gợi ý về những mảnh ghép cần có để hoàn thiện hệ sinh thái AI tại Việt Nam, nhằm đạt mục tiêu của Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030 (Chiến lược quốc gia về AI) và theo đúng con đường phát triển cần phải có của lĩnh vực được xác định sẽ tạo nên những đột phá trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Sức nóng và những mảng màu chưa sáng

Báo cáo trên dẫn các nghiên cứu đã thực hiện cho biết, quy mô thị trường AI Việt Nam ước tính đạt 753,4 triệu đô la Mỹ vào năm 2024, ước tính đạt 3,4 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030 với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) giai đoạn 2024-2030 là 28,63%. Một số ít doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI với quy mô khá lớn, chẳng hạn như Viettel, FPT, MobiFone, Vingroup. AI đã được ứng dụng trong các tổ chức, doanh nghiệp ở các ngành như ngân hàng, thương mại điện tử, bán lẻ, sản xuất, y tế, giáo dục.

Đặc biệt, theo Chỉ số sẵn sàng AI (AI Readiness Index) năm 2024 của CISCO, 100% các công ty được khảo sát cho biết nhu cầu triển khai AI ngày càng tăng trong năm qua; 48% công ty dành 10-30% ngân sách công nghệ thông tin cho việc triển khai AI, cam kết một nguồn lực lớn cho AI.

Quy mô thị trường AI Việt Nam ước tính đạt 753,4 triệu đô la Mỹ vào năm 2024, ước tính đạt 3,4 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030 với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) giai đoạn 2024-2030 là 28,63%.

Trong lĩnh vực khởi nghiệp, năm 2024, trong số 250 công ty khởi nghiệp dựa trên GenAI ở các nước ASEAN, 44% có trụ sở tại Singapore, 27% tại Việt Nam, 13% tại Indonesia, 7% tại Thái Lan, 6% tại Malaysia và 3% tại Philippines, còn lại ở các quốc gia ASEAN khác. Còn theo dữ liệu của PitchBook Data Inc., Việt Nam đứng thứ 2 ASEAN sau Singapore về số lượng AI startup năm 2024 với 765 công ty. Theo khảo sát của GenAI Fund, chi phí hoạt động thấp hơn và nguồn nhân lực đa dạng ở Việt Nam cho phép các công ty khởi nghiệp tạo ra sản phẩm chất lượng cao, trong khi vẫn giữ được chi phí trong tầm kiểm soát, biến Việt Nam trở thành lựa chọn ngày càng phổ biến để thành lập công ty khởi nghiệp GenAI.

Các tập đoàn toàn cầu như Google, Qualcomm hay Nvidia đã có các hoạt động đầu tư vào thị trường AI ở Việt Nam. Trong khi Google và Qualcomm quan tâm tới các dự án có tính chất đào tạo, hỗ trợ doanh nghiệp, Nvidia mua lại một doanh nghiệp AI trong nước để phát triển một trung tâm thiết kế lớn ở Việt Nam trong tương lai.

Dù vậy, nếu nhìn sâu hơn vào thực tế, còn nhiều điều cần suy nghĩ về bức tranh thị trường AI tại Việt Nam. Theo Chỉ số sẵn sàng AI năm 2024 của CISCO, chỉ có 22% các tổ chức tại Việt Nam đã hoàn toàn sẵn sàng triển khai và tận dụng các công nghệ AI, giảm so với mức 27% của năm 2023. Các doanh nghiệp gia đình Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu áp dụng AI; với phần lớn (64%) vẫn chưa bắt đầu tìm hiểu về AI, gần một phần ba hiện đang tìm hiểu và thử nghiệm các sáng kiến liên quan đến AI (27%), tỷ lệ nhỏ hơn đã triển khai các sáng kiến này (9%).

Quá trình tích hợp AI vào doanh nghiệp chậm đã gây khó khăn cho khởi nghiệp AI. Cùng với đó, thách thức về sự phù hợp của sản phẩm với thị trường, quản lý dòng tiền, cạnh tranh với các đối thủ đã thành danh và thiếu đầu ra bán hàng khiến doanh nghiệp khởi nghiệp thiếu vốn nhưng không thể gọi vốn, phần vì khó tiếp cận quỹ, phần vì không được nhà đầu tư săn đón.

Với nguồn lực khan hiếm và hạn chế, cơ hội nằm ở việc phát triển các giải pháp chuyên biệt cho các thị trường “ngách” và tận dụng nhân lực chuyên môn trong nước để tạo ra các ứng dụng AI phù hợp.

Các dự án đầu tư vào AI trong các lĩnh vực như kinh doanh, dịch vụ tiêu dùng, truyền thông, giáo dục có nguồn vốn huy động được còn nhỏ. Chẳng hạn, 765 startup AI và máy học tại Việt Nam chỉ gọi vốn được 47,3 triệu đô la Mỹ trong chín tháng đầu năm 2024, trung bình mỗi startup chỉ nhận được gần 62.000 đô la Mỹ.

Theo khảo sát về quy mô đầu tư của các doanh nghiệp vào AI ở một số nước ASEAN giai đoạn 2012-2021 của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), năm 2021, đầu tư vào AI ở Việt Nam đạt 31 triệu đô la Mỹ, thấp nhất trong sáu nền kinh tế được khảo sát gồm Việt Nam, Malaysia (114 triệu đô la), Thái Lan (162 triệu đô la), Philippines (34 triệu đô la), Indonesia (344 triệu đô la) và Singapore (2,293 tỉ đô la). Xếp hạng này không thay đổi tại thời điểm 2024, dù đầu tư vào AI tại Việt Nam tăng lên 95 triệu đô la nhưng mức tăng vẫn chậm hơn năm nền kinh tế còn lại, đặc biệt, Singapore đầu tư cho lĩnh vực này ở mức 8,4 tỉ đô la, chiếm 75% tổng vốn đầu tư cho AI của sáu nền kinh tế lớn ở ASEAN.

Từ thực trạng nêu trên, theo nhóm nghiên cứu, mục tiêu mà Chiến lược quốc gia về AI đưa ra - đến năm 2025 có “5 thương hiệu AI uy tín” - dường như khó đạt được. Nếu không có sự điều chỉnh chính sách, mục tiêu đạt “10 thương hiệu AI” vào năm 2030 cũng sẽ khó hoàn thành.

Con đường phát triển ngành AI tại Việt Nam

Tận dụng lợi ích của AI đồng thời giảm thiểu rủi ro với xã hội, con người là cách tiếp cận chung trong phát triển AI trên thế giới hiện nay và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Theo nhóm nghiên cứu, Việt Nam cần kết hợp các công cụ chính sách khác nhau mà việc đầu tiên là cần sửa đổi, bổ sung Chiến lược quốc gia về AI cho phù hợp với những diễn biến mới trong quá trình phát triển của công nghệ AI như AI tạo sinh; đề ra tầm nhìn, mục tiêu, lộ trình phát triển AI; chú trọng đồng thời cả thúc đẩy, hỗ trợ phát triển AI cùng với quản trị rủi ro của AI; bảo đảm AI có trách nhiệm, đáng tin cậy, tuân theo các giá trị của con người, quyền con người trong suốt vòng đời của hệ thống AI; ưu tiên phát triển AI theo lĩnh vực hẹp trên cơ sở ứng dụng các mô hình AI đã được phát triển trên thế giới.

Chiến lược cũng cần giao trách nhiệm cụ thể, rõ ràng, hợp lý hơn cho các bộ, ngành; vai trò của các bên liên quan trong phát triển AI ở Việt Nam, trong đó cần lưu ý nhiều hơn tới hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ giữa các chính phủ, giữa chính phủ với công ty công nghệ, giữa các công ty công nghệ và các trường, viện nghiên cứu trong và ngoài nước.

Ngoài ra, khuôn khổ hoạt động của hệ sinh thái AI cũng cần được bổ sung, hoàn thiện, theo cả chiều rộng và chiều sâu, cả “luật cứng” và “luật mềm”.

Cụ thể, Luật Công nghiệp công nghệ số quy định những nội dung khái quát về các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển AI; kiểm soát rủi ro AI ở Việt Nam. Các nội dung chi tiết, mang tính kỹ thuật về AI nói chung, cũng như AI trong những lĩnh vực hẹp nên được điều chỉnh trong nghị định, thông tư.

Việt Nam cần tiếp tục xây dựng các “luật mềm” - có tính chất tự nguyện - về AI, như bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến AI, các vấn đề về đạo đức AI, tiêu chuẩn quản trị AI trong doanh nghiệp, các nội dung cần chú ý về xã hội và môi trường liên quan đến AI... theo các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.

Ngoài việc đầu tư vào hạ tầng, dữ liệu AI, đào tạo nhân lực và có chính sách giáo dục, nghiên cứu AI, các chuyên gia khuyến nghị rằng Chính phủ có thể thực hiện các chính sách cầu nối lớn như:

(1) Thiết lập sandbox cho phép các doanh nghiệp lớn và nhỏ cùng nhau làm việc. Đây có thể là một nơi an toàn để thử nghiệm những ý tưởng và sáng kiến mới;

(2) Hỗ trợ thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ví dụ, Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) có thể đóng vai trò tương tự như InnovateUK tại Vương quốc Anh. Thông qua NIC, Chính phủ có thể trợ cấp phần lớn chi phí cho các hoạt động R&D có rủi ro cao để các doanh nghiệp nhỏ và vừa chấp nhận rủi ro nhiều hơn.

(3) Thành lập Trung tâm nghiên cứu AI quốc gia để có thể thực hiện các nghiên cứu sáng tạo nhất. Các trường đại học sau đó có thể hợp tác với trung tâm này để tiến hành nghiên cứu. Các kế hoạch/chiến lược đào tạo và giáo dục tài năng quốc gia cũng có thể được điều phối thông qua trung tâm này để đảm bảo sự phối hợp hiệu quả trên toàn quốc.

Về ưu tiên đầu tư, theo các tác giả của báo cáo, với nguồn lực khan hiếm và hạn chế, cơ hội nằm ở việc phát triển các giải pháp chuyên biệt cho các thị trường “ngách” và tận dụng nhân lực chuyên môn trong nước để tạo ra các ứng dụng AI phù hợp. Đây cũng là hướng đi đang được doanh nghiệp lớn và cả doanh nghiệp khởi nghiệp AI của Việt Nam lựa chọn.

Báo cáo dẫn chứng, ngay từ năm 2015, FPT đã tập trung giải quyết bài toán cụ thể về AI cho các doanh nghiệp khác như triển khai các giải pháp dựa trên AI tự động hóa trong nhà máy, tập trung phát triển phần mềm trợ lái thông minh cho ô tô...

Một trường hợp khác là AI Hay, doanh nghiệp ngay từ khi khởi nghiệp đã xác định không thâm nhập vào các thị trường cạnh tranh cao như tiếng Anh, nơi các công ty lớn như OpenAI và Google đã thống trị, mà tập trung vào các ngôn ngữ có nguồn lực trung bình đến thấp, đặc biệt là ở ASEAN và các khu vực lân cận. Trọng tâm hiện tại của AI Hay là tiếng Việt, với khối lượng xử lý trung bình khoảng 10.000 câu hỏi mỗi tháng kể từ khi ra mắt, phục vụ nhu cầu của người dùng Việt Nam.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới