Thứ tư, 19/03/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Làm phim tiểu sử: Người đã khuất cũng có quyền lên tiếng

Nguyễn Lương Sỹ

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) - Giải Oscar 2025 đã kết thúc, nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng. Mặc dù không được vinh danh ở những hạng mục quan trọng nhất, thể loại phim chuyển thể từ người thật vẫn giữ vững vị thế của một trong những dòng phim được ưa chuộng nhất, với rất nhiều cái tên góp mặt đề cử. Câu chuyện pháp lý đằng sau thể loại phim này cũng gây tò mò đầy thú vị.

Thể loại phim chuyển thể chưa bao giờ mất chỗ đứng ở các nền công nghiệp điện ảnh hàng đầu thế giới. Sự ưa chuộng này có thể được lý giải từ cả góc độ nhà sản xuất lẫn khán giả. Về phía nhà sản xuất, việc tận dụng những chất liệu có sẵn, có thật chắc chắn sẽ chân thực và đảm bảo về hiệu ứng khán giả. Về phía khán giả cũng vậy, họ luôn mong ngóng được ngắm nhìn thần tượng, hay những nhân vật lịch sử đã in hằn trong tâm tưởng được bước lên màn ảnh, một cách sống động và thực tế.

A Complete Unknown: đích thực là… “hoàn toàn không biết”

Nhiều phim đề cử Oscar năm 2025 được chuyển thể từ sách hoặc nhân vật có thật, như A Complete Unknown (về Bob Dylan), I’m Still Here (từ hồi ký có thật) hay The Nickel Boys, Conclave (từ tiểu thuyết); nhưng không thể tái lập thành tích cao nhất như Oppenheimer vào năm 2024, hay The King’s Speech năm 2011.

Áp phích quảng bá phim “A Complete Unknown”.

Với tư cách là tác phẩm phái sinh, dù là phái sinh từ một tác phẩm nghệ thuật gốc hay từ một cuộc đời có thật, loại hình điện ảnh nêu trên luôn tiềm ẩn những vướng mắc về bản quyền. Nếu chỉ thuần túy là chuyển thể từ tiểu thuyết hư cấu như Conclave, luật về quyền tác giả đã luôn mở sẵn lời giải.

Phức tạp hơn đôi chút, nhưng vẫn dùng chung đáp án, là phim chuyển thể từ hồi ký, tiểu sử. Nhà sản xuất phim phải được sự đồng ý từ chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm ban đầu. Chẳng hạn như khi sản xuất bộ phim The Imitation Game về nhà toán học Alan Turing, đoàn làm phim đã mua tác quyền từ Alan Turing; The Enigma của Andrew Hodges; hay bộ phim First Man về Neil Armstrong dựa trên sách của James Hansen.

Thách thức sẽ lớn hơn nếu nhà làm phim tự xây dựng kịch bản dựa trên cuộc đời có thật, mà không phải là phái sinh từ tác phẩm hồi ký sẵn có. Lúc này, họ sẽ phải khởi sự từ viên gạch đầu tiên, giống như cái cách mà James Hansen hay Andrew Hodges từng phải làm trước đó.

Tiêu biểu năm nay là dự án phim tiểu sử A Complete Unknown về huyền thoại âm nhạc Bob Dylan, cũng từng là một canh bạc về bản quyền. Chia sẻ trên podcast, các nhà sản xuất cho biết đã theo đuổi dự án từ năm 2018 mà chưa có cái gật đầu từ “chính chủ”. Họ thậm chí đã mời Timothée Chalamet nhận vai chính trong khi vẫn đang căng thẳng thương thảo từng chi tiết kịch bản với Bob Dylan. Nghĩa là, như chính tên gọi của phim, nhà sản xuất đã bắt tay vào làm phim khi họ cũng hoàn toàn chẳng biết được chủ nhân của nó có đồng ý hay không.

Có thể thấy, chuyện này đã bắt đầu vượt khỏi phạm vi của quyền tác giả, mà bước chân vào địa hạt của một loại quyền mơ hồ hơn: tạm gọi là quyền công bố danh tính (Right of Publicity). Quyền này cho phép một cá nhân kiểm soát việc sử dụng thương mại với các đặc điểm nhân thân của mình, như tên gọi, hình ảnh, chân dung, giọng nói… Thông thường, nó là sự cấu thành cùng lúc một loạt các đặc điểm kể trên, từ đó tạo ra câu chuyện cuộc đời khiến công chúng liên tưởng trực tiếp đến cá nhân đó. Quyền này phát sinh mạnh mẽ ở Mỹ, đặc biệt với người nổi tiếng vì hình ảnh của họ có giá trị thương mại cao.

Trên cơ sở Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp về bảo vệ quyền tự do ngôn luận và sáng tạo nghệ thuật, Tòa án Mỹ thường phân biệt sử dụng hình ảnh vì mục đích thương mại đơn thuần (như quảng cáo) với mục đích biểu đạt (như phim, sách, tranh ảnh). Nếu hình ảnh/tên tuổi được dùng trong một tác phẩm biểu đạt như phim tiểu sử, tòa có xu hướng cho rằng đó là sự tự do sáng tạo được Hiến pháp bảo vệ, chứ không chỉ đơn thuần “trục lợi” danh tiếng.

Ví dụ điển hình là vụ Olivia de Havilland kiện hãng FX. Năm 2017, minh tinh kỳ cựu kiện loạt phim Feud: Bette and Joan vì đã dùng hình ảnh và tên của bà mà không xin phép. Tòa sơ thẩm ban đầu ủng hộ bà, nhưng Tòa phúc thẩm California đã bác đơn, tuyên rằng loạt phim là một tác phẩm nghệ thuật có hư cấu, được Tu chính án thứ nhất bảo vệ(1). Nói cách khác, phim ảnh, sách báo kể chuyện về người thật - dù có lợi nhuận - vẫn được xem là hoạt động tự do ngôn luận, không cần sự chấp thuận của nhân vật.

“Cẩn tắc vô ưu”, bởi người chết cũng có quyền

Nhưng khổ nỗi, nào mấy ai được dựng phim khi còn sống. Liệu có còn tồn tại quyền về tên tuổi sau khi chủ nhân của nó đã chết? Tại Mỹ, chỉ có 24 bang công nhận quyền này tiếp tục kéo dài từ 40 năm (New York), 70 năm (California) tới 100 năm (Indiana) sau khi người đó qua đời. Người không may mắn nhất có lẽ là Marilyn Monroe. Bà mất năm 1962 ở California, nhưng nơi cư trú hợp pháp lại ở New York. Mãi đến năm 2021, New York mới công nhận và không có hiệu lực hồi tố; nên trước đó, năm 2008 tòa án phán quyết quyền tên tuổi của Monroe đã kết thúc cùng với bà​.

Châu Âu hầu như không có các quy định đặc biệt về quyền công bố như Mỹ. Đối với phim tiểu sử, nếu các tình tiết đời tư đã được công chúng biết đến từ trước (qua báo chí, tự truyện, lời kể nhân chứng...), thì việc đưa lên phim thường được chấp nhận. Nhưng nếu phim gây ảnh hưởng đến quyền riêng tư của những người còn sống, hoặc gây tổn hại danh dự người quá cố, gia đình có thể khởi kiện. Chẳng hạn, tiểu thuyết Esra ở Đức được cho là dựa trên cuộc đời của hai người phụ nữ có thật (đã mất). Chồng và con của họ kiện vì tác phẩm xâm phạm nghiêm trọng đời tư gia đình. Tòa án Đức đồng tình và ra lệnh cấm phát hành bản sách đó, buộc tác giả phải sửa đổi tên và tình tiết để đảm bảo không ai nhận ra người thật(2).

Theo thông lệ, dù luật có ràng buộc hay không, các nhà làm phim lớn thường hiếm khi né tránh việc thỏa thuận trước với gia đình. Việc này giống như “mua bảo hiểm” để đổi lại đoàn phim vừa có tư liệu chính xác hơn, vừa giảm nguy cơ bị kiện tụng sau này. Họ hiểu rằng phim tiểu sử nếu bị gia đình phản đối kịch liệt sẽ gặp rủi ro truyền thông. Nhiều đạo diễn chọn cách hư cấu một phần hoặc đổi tên nếu câu chuyện quá nhạy cảm.

Nhưng cũng không ít phim cố tình tách khỏi sự can thiệp của gia đình để giữ quan điểm độc lập. Ví dụ, loạt phim The Crown về Hoàng gia Anh được quảng cáo là “dựa trên sự kiện có thật”, nhưng có những đoạn hư cấu đời tư và đối thoại riêng. Gia đình Hoàng gia, thậm chí cựu Thủ tướng Anh cũng lên tiếng chỉ trích, nhưng không thể kiện vì luật Anh không bảo vệ danh tiếng người đã mất (trong phim là cố Nữ hoàng Elizabeth II và Hoàng thân Philip). Thay vào đó, họ chỉ có thể yêu cầu thêm khuyến cáo “phim hư cấu” cho khán giả(3).

Nhìn chung, làm phim tiểu sử cũng có trăm ngàn cái khó. Một mặt, các nhà làm phim cần cân bằng giữa việc thể hiện trung thực cuộc đời nhân vật với việc tôn trọng sự riêng tư và cảm xúc của người liên quan. Mặt khác, họ phải truyền tải thông điệp riêng của mình một cách khéo léo để đảm bảo không làm méo mó, khiến công chúng hiểu sai lệch về hình tượng có thật. Sau cùng, họ còn phải cẩn trọng trước những rào cản pháp lý về quyền nhân thân mà mỗi nơi lại có những quan điểm vận dụng khác nhau.

(1) https://www.documentary.org/column/raising-dead-understanding-post-mortem-rights-publicity#:~:text=These%20laws%20vary%20significantly%2C%20however,of%20their%20enactment%2C%20or%20the

(2) https://verfassungsblog.de/literature-as-human-dignity-the-constitutional-courts-misguided-ban-of-the-novel-esra/

(3) https://www.nytimes.com/2023/12/26/arts/television/the-crown-royal-power.html#:~:text=After%20former%20Prime%20Minister%20John, misunderstood%20the%20sprawling%20drama’s%20appeal

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới