Thứ Bảy, 31/05/2025
27 C
Ho Chi Minh City

‘Mật độ’ kỳ lân công nghệ của Việt Nam còn quá thấp

Vietstats*

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) - Việt Nam đang ở nhóm cuối các quốc gia trong khu vực và thế giới về hiệu quả hình thành kỳ lân công nghệ trên 1 triệu dân số. Làm thế nào để có nhiều kỳ lân hơn là một thách thức lớn trong bối cảnh Việt Nam đã xác định tầm nhìn xây dựng các doanh nghiệp công nghệ số “ngang tầm khu vực và thế giới” với Nghị quyết 57.

Kỳ lân Việt vẫn còn khiêm tốn

Việt Nam có 4 kỳ lân công nghệ được quốc tế công nhận đến thời điểm tháng 4-2025, gồm VNG, MoMo, VNPay và Sky Mavis. Con số này vẫn khá khiêm tốn so với khu vực và thế giới.

Việt Nam hiện vẫn đang ở phía sau cả về số lượng và mật độ kỳ lân công nghệ. Với 4 kỳ lân trên 100 triệu dân, mật độ của Việt Nam chỉ đạt 0,04 kỳ lân trên mỗi triệu dân.

Con số này thấp hơn so với Indonesia (0,05) và chỉ nhỉnh hơn Thái Lan, Malaysia (0,03) và Philippines (0,01). Trong khi đó, Singapore với dân số chỉ 5,9 triệu người nhưng sở hữu tới 14 kỳ lân, đạt mật độ 2,37, cao gấp gần 60 lần Việt Nam. Israel là ví dụ nổi bật khác, đạt 2,46 kỳ lân/triệu dân dù quy mô dân số còn nhỏ hơn nữa.

Với vị trí hiện tại, Việt Nam đang ở nhóm cuối về hiệu quả hình thành kỳ lân. Điều này cho thấy khoảng cách giữa tiềm năng và thực tế còn rất lớn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Vietstats

Không phải quốc gia đông dân là có nhiều kỳ lân

Quy mô dân số không còn là yếu tố quyết định. Những quốc gia nhỏ như Estonia (chỉ 1,3 triệu dân) vẫn có kỳ lân, nhờ vào chính sách khuyến khích công nghệ rất chủ động, chính phủ số toàn diện và mô hình hỗ trợ khởi nghiệp tinh gọn.

Trong khi đó, các nước đông dân như Trung Quốc hay Ấn Độ có số lượng kỳ lân lớn nhưng mật độ kỳ lân lại thấp hơn nhiều, cho thấy sự phát triển không đồng đều và phụ thuộc vào vài trung tâm lớn.

Các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ (702 kỳ lân), Trung Quốc (302) và Ấn Độ (119) dẫn đầu về số lượng tuyệt đối, song khi xét theo mật độ, chính các quốc gia nhỏ nhưng có hệ sinh thái khởi nghiệp hiệu quả như Singapore hay Israel lại là những hình mẫu.

Điều này cho thấy rằng dân số lớn không đảm bảo tỷ lệ kỳ lân cao, mà chính môi trường chính sách, năng lực hỗ trợ tăng trưởng, và mức độ kết nối toàn cầu mới là yếu tố quyết định.

Nhiều thách thức khi “nuôi dưỡng” kỳ lân

Việc chỉ có 4 kỳ lân sau hơn một thập kỷ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp phản ánh thực tế Việt Nam vẫn đang thiếu các yếu tố “nuôi dưỡng kỳ lân”.

Một trong những rào cản lớn nhất là thiếu vốn mạo hiểm ở giai đoạn tăng trưởng (scale-up). Nhiều startup Việt Nam sau khi vượt qua giai đoạn khởi sự vẫn gặp khó trong việc gọi vốn lớn để mở rộng thị trường, phát triển sản phẩm quy mô quốc tế. Thị trường đầu tư mạo hiểm trong nước còn non trẻ, trong khi các nhà đầu tư quốc tế lại dè dặt do lo ngại về tính minh bạch, pháp lý và năng lực quản trị doanh nghiệp.

Thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ lõi (deep tech) như AI, blockchain, điện toán đám mây hay bán dẫn. Dù có nhiều chương trình đào tạo, nhưng vẫn còn khoảng cách lớn giữa kỹ năng được giảng dạy và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.

Về chính sách, hệ thống pháp lý hiện hành vẫn chưa bắt kịp tốc độ phát triển của đổi mới sáng tạo. Từ thủ tục gọi vốn, thoái vốn, IPO đến bảo hộ sở hữu trí tuệ và xử lý dữ liệu cá nhân, nhiều quy định còn thiếu rõ ràng, gây khó khăn cho các doanh nghiệp công nghệ hoạt động linh hoạt.

Phần lớn startup Việt Nam vẫn lựa chọn “chơi sân nhà”, tức chỉ phục vụ thị trường nội địa mà chưa đủ năng lực, tham vọng hoặc điều kiện để mở rộng ra quốc tế, điều kiện gần như bắt buộc để trở thành một kỳ lân thực thụ.

Cơ hội từ Nghị quyết 57                                                                 

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, sự trỗi dậy của các “kỳ lân công nghệ” – những doanh nghiệp khởi nghiệp có định giá từ 1 tỉ đô la Mỹ trở lên – không chỉ là biểu tượng cho thành công của nền kinh tế số, mà còn phản ánh trình độ phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp một quốc gia.

Với Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị Việt Nam đã chính thức đặt ra một mục tiêu đến năm 2030, có ít nhất 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm quốc tế, và tối thiểu 10 doanh nghiệp vào năm 2045; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo lên trên 40%. Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) được nâng lên mức 2% GDP, trong đó khu vực tư nhân đảm nhận hơn 60%, cho thấy Nhà nước kỳ vọng vào vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp trong đổi mới công nghệ.

Dù không sử dụng cụm từ “kỳ lân công nghệ”, nhưng mục tiêu xây dựng các doanh nghiệp công nghệ số “ngang tầm khu vực và thế giới” cho thấy rõ định hướng nuôi dưỡng những công ty có quy mô lớn, năng lực sáng tạo vượt trội và khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Để biến tầm nhìn chiến lược này thành hiện thực, điều quan trọng nhất là khả năng chuyển hóa chính sách thành hành động cụ thể và hiệu quả. Việt Nam không thiếu tiềm năng, song hành trình từ một startup thành kỳ lân không thể chỉ dựa vào ý chí của doanh nhân, mà đòi hỏi một hệ sinh thái đồng bộ, từ thể chế, tài chính, nhân lực đến hạ tầng đổi mới sáng tạo.

Kỳ lân là kết quả, không phải mục tiêu

Kỳ lân công nghệ không thể được “sản xuất” theo kế hoạch nhà nước, cũng không thể ra đời từ các cuộc thi hay phong trào ngắn hạn. Kỳ lân là kết quả của một quá trình tích tụ lâu dài của năng lực công nghệ, thị trường, tài chính và con người. Đó là thành quả của một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trưởng thành, năng động, nơi doanh nghiệp được tự do thử nghiệm, thất bại và vươn lên.

Nếu Việt Nam thực hiện nghiêm túc những định hướng của Nghị quyết 57, đặc biệt là đầu tư có chiều sâu cho đổi mới sáng tạo, thiết lập môi trường thể chế thuận lợi, và lấy doanh nghiệp công nghệ làm trung tâm chiến lược phát triển, thì kỳ lân sẽ không còn là điều xa vời.

----------------------------------------------------

*Nền tảng tổng hợp dữ liệu kinh tế Vietstats

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới