(KTSG Online) – Phụ phẩm trong ngành nông nghiệp tuy có khối lượng vô cùng lớn nhưng việc sử dụng để tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng được đánh giá là chưa hiệu quả.
Tại hội thảo trực tuyến "Hiện trạng phụ phẩm nông, lâm, thuỷ sản ở vùng Đông Nam bộ, ĐBSCL và đề xuất giải pháp" diễn ra vào hôm nay, 10-9, ông Tống Xuân Chinh, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi, cho biết tổng lượng phụ phẩm nông nghiệp cả nước lên đến 156,8 triệu tấn. Trong đó, có 88,9 triệu tấn phụ phẩm sau thu hoạch từ cây trồng và quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt; 61,4 triệu tấn phân gia súc, gia cầm từ ngành chăn nuôi; 5,5 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp và khoảng 1 triệu tấn từ ngành thuỷ sản.
Theo ông Chinh, vùng Đông Nam bộ ước tính có trên 13,9 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp, chiếm 9,3% tổng lượng phụ phẩm nông nghiệp của cả nước, trong đó, có 7,8 triệu tấn phụ phẩm từ trồng trọt và 6,1 triệu tấn từ phân vật nuôi.
Vùng ĐBSCL ước tính có 39,4 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp, chiếm 26,2% tổng lượng phụ phẩm nông nghiệp của cả nước, trong đó, 33,2 triệu tấn từ trồng trọt và 6,2 triệu tấn từ chăn nuôi...
Đối với ngành trồng trọt, phụ phẩm rơm lúa của cả nước là 42,8 triệu tấn; thân bắp 10 triệu tấn; rau quả 3,6 triệu tấn; thân cây mì 3,1 triệu tấn; vỏ trấu 8,6 triệu tấn; bã mía 3,5 triệu tấn; lõi bắp 1,4 triệu tấn; vỏ mì là 1,3 triệu tấn…
Tuy số lượng phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam nói chung và vùng Đông Nam bộ, ĐBSCL nói riêng là rất lớn nhưng việc sử dụng được đánh giá vẫn chưa hiệu quả và có sự khác nhau giữa các loại sản phẩm.
Theo ông Chinh, đối với phụ phẩm trồng trọt, tỷ lệ thu gom chỉ đạt 52,2% trên tổng lượng là 88,9 triệu tấn; chăn nuôi có tỷ lệ thu gom là 75,1% trên tổng lượng là 61,4 triệu tấn; thuỷ sản có tỷ lệ thu gom cao nhất với 90% trên tổng lượng phụ phẩm là 1 triệu tấn và lâm nghiệp có tỷ lệ thu gom 50,2% trên tổng lượng là 5,5 triệu tấn.
Không chỉ tỷ lệ thu gom thấp, việc sử dụng phụ phẩm vẫn còn khá đơn giản, chưa tạo được giá trị gia tăng cao.
Chẳng hạn, với rơm lúa, theo ông Chinh, được sử dụng làm thức ăn thô cho gia súc; làm chất độn chuồng cho vật nuôi; phủ luống/gốc cây trồng. Trong khi đó, phụ phẩm chăn nuôi ở hộ nông dân thì 48,5% ủ phân truyền thống (compost), 11% khí sinh học, 31,8% bán nuôi trùn quế hoặc thải bỏ…; ở trang trại thì có 73,3% được sử dụng để bán làm phân hữu cơ và 26,7% dùng làm khí sinh học (biogas).
Ông Lê Văn Thiệt, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, cho biết tỷ lệ các nhà máy sử dụng nguồn nguyên liệu hữu cơ để sản xuất phân bón hữu cơ ở mức khá thấp.
Cụ thể, sử dụng 43% chất thải chăn nuôi; 33,2% chất thải chế biến thực vật; 17,9% phụ phẩm trồng trọt; 16,2% chất thải chế biến động vật, thuỷ sản; rác thải sinh hoạt hữu cơ 8,1% và rong, tảo biển chỉ 5,1%.
Ông Tống Xuân Chinh cho biết hiện ngành chế biến phụ phẩm thủy sản của Việt Nam chỉ đạt khoảng 275 triệu đô la Mỹ, nhưng, nếu khai thác hết nguồn phụ phẩm gần 1 triệu tấn của ngành thủy sản bằng công nghệ cao, thì có thể thu về 4-5 tỉ đô la Mỹ.
Tuy nhiên, muốn gia tăng hiệu quả sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, theo ông Chinh, cần đổi mới về cơ chế chính sách thông qua giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu trang thiết trị, công nghệ để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực thu gom, đóng gói, vận chuyển, bảo quản, chế biến các phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi nhằm nối dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp.
Mặt khác, theo đề xuất của ông Chinh, cần nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới để áp dụng hiệu quả trong lĩnh vực xử lý, chế biến phụ phẩm nông nghiệp.
Chẳng hạn, sản xuất, chế biến thức ăn thô cho gia súc; sản xuất phân bón hữu cơ các loại; sản xuất năng lượng tái tạo từ sinh khối phụ phẩm nông nghiệp; sản xuất các loại dầu sinh học và năng lượng sinh học từ sinh khối phụ phẩm nông nghiệp…
Ông Mai Thành Phụng, Phó chủ tịch Hiệp hội Trang trại và doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam, đề xuất cần thúc đẩy mục tiêu đến năm 2030 sản xuất 50 triệu tấn phân bón hữu cơ. “Muốn vậy, cần có giải pháp, cơ chế chính sách cho doanh nghiệp phát triển sản xuất phân hữu cơ”, ông Phụng nói.
Thực ra vấn đề này đã được các nhà khoa học Việt Nam nêu ra từ thế kỷ trước nhưng mấy chục năm rồi nó cũng chỉ là đề xuất, nghiên cứu… thực hiện quy mô nhỏ lẻ và nhanh chóng lụi tàn. Hy vọng thời gian đến có chuyển biến tích cưc hơn!