(KTSG Online) - Việc các tài sản mã hóa (crypto-assets) dần trở thành sản phẩm đầu tư hấp dẫn trên toàn cầu, đặt ra thách thức không nhỏ trong việc quản lý thuế và dòng tiền với các cơ quan quản lý ở Việt Nam.
- Bộ Tài chính: Chưa có doanh nghiệp đăng ký cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa
- Ứng phó với rủi ro rửa tiền trên thị trường tài sản mã hoá
Thị trường nhiều tiềm năng, nhưng khó quản lý
Dữ liệu cập nhật từ Coin Market Cap cho thấy, tổng vốn hóa thị trường tài sản mã hóa toàn cầu đạt khoảng 3.940 tỉ đô la Mỹ tính tới ngày 11-9-2025, tăng 2,38% so với ngày liền trước. Trong đó, giá trị vốn hoá của Bitcoin khoảng 2.270 tỉ đô la - chiếm 57,45% tổng giá trị vốn hoá toàn thị trường. Ethereum, XRP, Tether và BNB có giá trị vốn hoá lần lượt 528 tỉ đô la, hơn 170 tỉ đô la và 125 tỉ đô la.
Tổng khối lượng giao dịch 24 giờ ở mức 154,6 tỉ đô la. Trong đó DeFi chiếm gần 12,5%, còn stablecoin áp đảo với khoảng 96%.

Tại Việt Nam, Nghị quyết 05/2025 của Chính phủ cho phép thí điểm tài sản mã hoá trong 5 năm, bắt đầu từ ngày 9-9-2025. Theo đó, các doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện về vốn, cơ cấu tổ chức... sẽ được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ tổ chức sàn giao dịch.
Nắm bắt cơ hội này, một số đơn vị hoạt động trong lĩnh vực các chứng khoán, ngân hàng, bất động sản… đã hợp tác, thành lập những doanh nghiệp mới, có đăng ký hoạt động trong lĩnh vực tài sản mã hoá như CAEX, TCEX hay VIXEX. Cùng giai đoạn, một số đơn vị như MB, Tecombank, TCBS, SSI, HVA… cũng có động thái thể hiện sẵn sàng tham gia thị trường tài sản mã hóa.
Như vậy, thị trường sẽ có thêm ít nhất một đơn vị cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa được thành lập, có nguồn vốn liên quan đến công ty thành viên và cổ đông ngân hàng, trong thời gian tới.
Theo các chuyên gia, sự phát triển nhanh về quy mô vốn, sản phẩm, dịch vụ liên quan tới tài sản mã hóa mang tới cơ hội phát triển tài chính toàn diện. Nhưng cũng đi kèm rủi ro thất thu lớn với ngân sách nhà nước, khi các giao dịch crypto diễn ra với khối lượng lớn nhưng chưa chịu sự điều tiết đầy đủ.
Tại một hội thảo về chính sách tài chính công - thuế dưới tác động chuyển đổi số diễn ra đầu tháng 10-2025, ThS. Lưu Ánh Nguyệt, Viện Chiến lược và chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính, cho biết đặc tính phi tập trung, xuyên biên giới và tính ẩn danh tương đối của crypto khiến chúng dễ bị lợi dụng cho mục đích rửa tiền, trốn thuế hoặc tài trợ khủng bố.
Thực tế, Chính phủ đã sớm nhận thấy sự cần thiết của việc xây dựng khung khổ pháp lý tài sản mã hóa, thể hiện qua quyết định số 1255 ngày 21-8-2017 của Thủ tướng với nội dung phê duyệt “Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo”.
Luật Công nghiệp Công nghệ số được Quốc hội thông qua vào tháng 6-2025 cũng đưa ra khái niệm “tài sản mã hóa” vào quy định, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa quản lý đối với loại tài sản mới này. Tới Nghị quyết số 05/2025, Chính phủ đã xác định chính sách thuế với giao dịch, chuyển nhượng, kinh doanh tài sản mã hóa được áp dụng như các quy định về thuế với chứng khoán cho tới khi có chính sách thuế với thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam.
Nhưng theo bà Nguyệt, chính sách hiện hành vẫn chưa có quy định cụ thể về phân loại tài sản mã hóa trong hệ thống thuế. Ngoài ra, chưa xác định được rõ ràng căn cứ tính thuế và chưa có cơ chế quản lý thuế phù hợp với đặc thù phi tập trung, xuyên biên giới của loại tài sản này…
"Đặc tính nổi bật của tài sản mã hóa là tính phi tập trung, xuyên biên giới và ẩn danh tương đối, khiến chúng khó kiểm soát bằng các công cụ pháp lý truyền thống. Bên cạnh đó, giá trị tài sản mã hóa biến động mạnh, thiếu chuẩn mực kế toán để ghi nhận, dẫn đến thách thức trong xác định căn cứ tính thuế", bà Nguyệt cho biết.
Còn ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc, Công ty kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín, cho biết tài sản mã hoá không phải chứng khoán, cũng không phải tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015. Nhưng về bản chất, chúng vẫn có quyền tài sản, theo quy định tại điều 115, Bộ luật Dân sự năm 2015.
Như vậy, cần được ứng xử như các quyền tài sản khác khi giao dịch, tương tự biển số xe, quyền thuê tài sản, hoặc quyền sử dụng tài sản. Còn việc áp dụng mức tính thuế với tài sản mã hoá tương tự như chứng khoán, là chưa phù hợp.
“Theo Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) thì tài sản mã hoá với tư cách là quyền tài sản phải chịu mức thuế GTGT 10%, trong khi chứng khoán, hay phần góp vốn thì không chịu thuế GTGT. Điều này cho thấy sự khác biệt về nghĩa vụ thuế GTGT giữa tài sản mã hoá và chứng khoán”, ông Được giải thích.
Cũng theo ông Được, chính sách thuế cần áp dụng đúng bản chất của đối tượng, không chỉ nên dựa vào hình thức vận hành của giao dịch – tương tự chứng khoán, mà bỏ qua bản chất tài sản và quyền tài sản, làm méo mó giao dịch và giảm tính hiệu quả của chính sách thuế.
Linh hoạt trong phân loại tài sản mã hoá để áp thuế
Thực tế, ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 05/2025, Bộ Tài chính đã phân công các đơn vị soạn thảo chính sách thuế, phí, lệ phí cho giao dịch tài sản mã hóa. Đồng thời, xây dựng quy định kế toán áp dụng cho doanh nghiệp và các đối tượng liên quan.
Tại dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi, gửi Bộ Tư pháp thẩm định, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định về nhóm thu nhập khác thuộc diện chịu thuế TNDN, trong đó thu nhập từ chuyển nhượng tài sản mã hoá. Cụ thể, cơ quan này đề nghị áp dụng mức thuế suất 0,1%/giá chuyển nhượng/lần giao dịch, tương tự như với chuyển nhượng chứng khoán hiện nay.

Nhưng để bảo đảm tính công bằng, ông Nguyễn Văn Được cho rằng phải thu thuế theo bản chất pháp lý của tài sản số, tức là thu thuế với việc chuyển nhượng quyền tài sản, thay vì thu thuế tương tự như chứng khoán. Hoặc thu thuế theo thu nhập thực tế.
Từ cơ sở trên, vị này đề xuất hai phương án. Với phương án 1, mức thuế suất cần là 1%/giá giao dịch - tương tự hoạt động kinh doanh khác của hộ kinh doanh, hoặc 5% tính trên trên phần vượt 20 triệu - tương tự chuyển nhượng biển số xe, tên miền.
Với phương án 2, thu thuế 17% hoặc 20%/thu nhập thực tế (doanh thu trừ chi phí), tương tự hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai hoặc hoạt động chuyển nhượng vốn của cá nhân.
“Hình thức giao dịch của tài sản số tương đồng với chứng khoán nên tôi cho rằng phương án 1 là khả thi nhất”, ông Được đánh giá.
Song song với chính sách thuế, đại diện Trọng Tín cho rằng cần nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ tiên tiến, như phân tích chuỗi (blockchain analytics), để theo dõi và xác định các giao dịch tài sản mã hóa. Hơn nữa, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thuế tài sản mã hóa để người dân hiểu và tự giác tuân thủ.
Dẫn chứng kinh nghiệm quốc tế, bà Lưu Ánh Nguyệt nhấn mạnh cơ sở quan trọng nhất để đánh thuế hiệu quả là xây dựng hệ thống phân loại tài sản mã hoá rõ ràng, phản ánh đúng bản chất kinh tế của từng loại. Theo đó, Việt Nam có thể áp dụng cơ chế phân loại linh hoạt, cho phép cơ quan thuế phân định tài sản mã hóa là chứng khoán, hàng hóa hay công cụ thanh toán, tùy theo mục đích sử dụng và đặc điểm cụ thể, tương tự như Singapore và Australia.
“Các đồng tiền mã hóa thanh khoản cao như Bitcoin có thể được coi là hàng hóa, trong khi token dùng để huy động vốn cần được quản lý như chứng khoán, tương tự Thái Lan. Bên cạnh đó, việc ban hành hướng dẫn chi tiết về các giao dịch phức tạp như staking, airdrop hay hoán đổi là cần thiết để xác định rõ đâu là sự kiện phát sinh thu nhập chịu thuế, qua đó nâng cao tính minh bạch”, bà Nguyệt lưu ý.