Truyền hình thực tế và căn tính dân tộc
Đỗ Anh
![]() |
Giọng hát Việt nhí “đã khiến khán giả theo dõi chương trình cảm thấy tự hào: mình là người Việt Nam!”. |
(TBKTSG) - Điểm chung của các chương trình giải trí và truyền hình thực tế nói riêng dù ở nước ngoài hay trong nước đều là tập trung khai thác những tiết mục mang tính truyền thống và làm sâu sắc ý niệm căn tính dân tộc nhằm thu hút càng đông khán giả càng tốt khi họ cùng chia sẻ những giá trị đã được thiết lập này.
Xoa dịu và vỗ về
Khi mua bản quyền các chương trình truyền hình thực tế, quốc gia nhập khẩu vừa có được sự thỏa mãn kết nối với thế giới và không bị cô lập với dòng chảy đương thời, vừa dường như được khuyến khích và tự do thể hiện bản sắc văn hóa của mình trên nền định dạng sẵn có. Tùy theo quy định của định dạng chương trình mà người ta có thể địa phương hóa nó với ý nghĩa là họ làm chủ hoàn toàn nội dung chương trình.
Khán giả được kết nối với truyền hình thực tế với nhận thức giản đơn rằng mình thuộc về và được nhận diện bởi những giá trị văn hóa chung, điều đem đến cho họ một cảm giác thỏa mãn, hài lòng mà không cần phải dùng quá nhiều tư duy. Trên truyền hình Úc chẳng hạn, người dẫn chương trình không nói “quý vị, các bạn” mà liên tục kêu gọi: “Australia, hãy bầu cho thí sinh X, thí sinh Y”. Trong hành ngôn này, “Australia” trở thành một từ bao hàm tất cả khán giả Úc ở trong đó.
Hai nhà nghiên cứu người Phần Lan Minna Alasma và Mervi Pantti cho rằng truyền hình thực tế liên tục khai thác cái gọi là dân tộc tính tầm phào (banal nationality) bằng việc tái sản xuất những giá trị đã được ngầm định và chấp nhận là căn tính dân tộc. Mục đích của nó không gì khác là tạo cảm giác gắn kết cho khán giả như một khối thống nhất, từ đó kêu gọi sự tương tác qua bình chọn tin nhắn của họ - gần giống như cách mà các chính trị gia vẫn kêu gọi cử tri ủng hộ mình bằng việc xây dựng hình ảnh bản thân như là đại diện cho những giá trị, quy ước chung của cộng đồng, hay quốc gia.
Và xét ở phương diện văn hóa, tính đại diện của quán quân trong cuộc thi truyền hình thực tế là vô cùng quan trọng. Nhà nghiên cứu Graeme Turner phân tích phiên bản Big Brother của Úc và phát hiện rằng, quán quân sẽ là “điển hình có tính quy ước nhất cho tính cách Úc mà người ta có thể hình dung được”, và thường là thí sinh “ít gây bối rối nhất” về mặt nhận diện văn hóa.
Điều này cũng có thể đúng với các chương trình truyền hình thực tế phiên bản Việt. Ngay từ đầu và suốt chương trình, Giọng hát Việt luôn nhấn mạnh tiêu chí “sáng tạo, mới mẻ, phá cách” nhưng ít nhất thì quán quân hai mùa lại là những thí sinh ít phá cách hơn cả. Như gần đây nhất là tiết mục Hương xưa với thí sinh mặc áo dài, tóc vấn thời phụ nữ tân thời khiến giám khảo thốt lên: “Đây mới chính là The Voice phiên bản Việt!”, cũng là một cách xoa dịu hiệu quả khi chương trình này mùa trước bị phản ứng về việc thí sinh hát tiếng Anh quá nhiều.
“Các con đã khiến cho cô chú và chắc chắn là các khán giả theo dõi chương trình cảm thấy tự hào: mình là người Việt Nam!”. Đó là lời nhận xét của các huấn luyện viên đã trở nên quen thuộc trong chương trình Giọng hát Việt nhí mỗi khi có thí sinh nhỏ tuổi trình diễn các ca khúc mang âm hưởng dân ca. Khi đó, huấn luyện viên và cả người dẫn chương trình nhiều phen thể hiện sự xúc động và phát biểu cảm tưởng là chính, thay vì phải đưa ra nhận xét về mặt chuyên môn cho các em.
Huyền thoại và thực tế
Một nghiên cứu mới đây của Emma Price (Úc) cũng chỉ ra rằng, truyền hình thực tế sử dụng những huyền thoại trong đời sống văn hóa để làm cầu nối với công chúng.
Huyền thoại giữ vai trò quan trọng là cái gắn kết về mặt văn hóa các cá nhân vào cộng đồng, quốc gia, nuôi dưỡng ý niệm tập thể, căn tính dân tộc cho họ. Theo đó thì huyền thoại và truyền hình đều giống nhau, đều cùng chiếm lĩnh một không gian gần gũi với công chúng, giúp họ nhận diện những căn tính chung thông qua những câu chuyện kể bằng hình ảnh mỗi ngày. Huyền thoại là một điểm trung chuyển bởi nó nối liền quá khứ với hiện tại, nhất là khi được khai thác trên truyền hình thực tế - nó trở thành một thực tế không cần bàn cãi.
Nghiên cứu của Emma Price lấy ví dụ là chương trình Bondi Rescue (Đội cứu hộ biển Bondi) - chương trình được người Úc yêu thích bởi nó nhấn mạnh cái giá trị văn hóa quan trọng bậc nhất của châu Đại Dương là văn hóa biển. Đi liền với đó là sức mạnh chinh phục mang biểu tượng nam tính mạnh mẽ của quốc gia này. Nó cũng góp phần quan trọng thay đổi hình ảnh nước Úc trước đây vốn gắn liền với rừng rậm đã in đậm trong biểu tượng về vị anh hùng lục lâm Ned Kelly và bài dân ca nổi tiếng nhất xứ này Waltzing Matilda.
Huyền thoại chống ngoại xâm cũng được khai thác triệt để trên truyền hình thực tế Việt Nam. Đặc biệt là ở chung kết các cuộc thi, những tiết mục truyền thống, hoành tráng sẽ được dàn dựng, chuẩn bị cho việc tìm ra quán quân đại diện cho tính Việt nhất. Thay đổi cuối cùng sát ngày thi của Hoài Lâm khi hóa thân vào vai Bà Trưng là quyết định quan trọng khiến ca sĩ trẻ này dành quán quân tuyệt đối Gương mặt thân quen mùa thứ hai.
Thách thức và gây sốc
Tuy nhiên, sẽ không có gì là hấp dẫn nếu căn tính dân tộc chỉ được khai thác một chiều theo hướng vỗ về, làm đậm cái sẵn có. Giáo sư Silvio Waisbord ở Đại học George Washington (Mỹ) viết: “Những chương trình truyền hình thực tế là nơi mà các cách hiểu khác nhau về bản sắc văn hóa va đập với nhau và liên tục được khái niệm lại”.
Gây tranh cãi nhất phải nói đến là chương trình Big Brother. Xuất phát từ Hà Lan với hơn 70 phiên bản toàn cầu và luôn gây sốc với những hình ảnh về sex, khỏa thân và ngôn ngữ tục tĩu. Phiên bản Người giấu mặt ở Việt Nam, chưa nói về sự thành công hay không, cũng gặp phản ứng khi đưa lên những cảnh hở hang của thí sinh, hay quan hệ đồng tính công khai. Báo chí cũng phản ứng việc người cầm cân nảy mực của Vietnam’s Next Top Model cư xử quá thô bạo, thậm chí xúc phạm thí sinh, trong khi “văn hóa truyền thống” của ta vốn trọng sự mực thước, quy phạm của người thầy đối với học trò. Hay những tranh luận liên tiếp về việc Giọng hát Việt mà không thấy bản sắc Việt ở đâu, mà chỉ thấy từ huấn luyện viên cho tới thí sinh đều nỗ lực “Tây hóa” từ phong cách, phát ngôn, cho tới hát xướng.
Các chương trình kiểu này có thể vin vào cớ hướng vào khán giả trẻ để mạnh dạn gây sốc và thách thức những giá trị đã định hình. Tuy nhiên, nhà sản xuất sẽ phải đối mặt với sự đu dây khá mạo hiểm khi động chạm vào đám đông. Thất bại của Survivor phiên bản Nhật là một điển hình. Chương trình này dựa trên phương châm “thành công của người này được trả giá bằng thất bại của người khác” cực kỳ mâu thuẫn và xa lạ với văn hóa truyền thống của người Nhật vốn “tôn trọng tính hài hòa tập thể hơn là những toan tính cá nhân” (trích theo bài nghiên cứu của Iwabuchi, 2004).
Mặc dù hưởng lợi từ việc khai thác những giá trị của căn tính dân tộc, nhà sản xuất truyền hình thực tế cũng phải đối đầu với việc tìm tòi cái mới và thay đổi liên tục để lôi kéo khán giả. Cho dù là xoa dịu hay thách thức những giá trị đã định hình trong quần chúng, thì truyền hình thực tế tạo ra tình huống nước đôi cho những người tham gia: vừa tự hào được đặt để vào một chương trình có tính toàn cầu, vừa tự ti vì không thể thoát ra được hai chữ “phiên bản” của cái gốc.
Trong một nghiên cứu gần đây, tác giả Long Bùi cho rằng, những chương trình nhập khẩu như vậy càng tiết lộ vị thế ngoại biên của chúng ta vốn vẫn bị coi là “lạc hậu” và câu hỏi về căn tính, nhận diện văn hóa quốc gia so với thế giới vẫn còn bỏ ngỏ với sự tranh cãi.