(KTSG) - Xu hướng lãi suất huy động tăng đang gây ra không ít lo ngại, không chỉ liên quan đến ổn định vĩ mô, mà còn kìm hãm động lực nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng của nhà điều hành.

E ngại xu hướng lãi suất kìm hãm việc nới lỏng chính sách tiền tệ
18,2 triệu tỉ đồng là dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế tính đến ngày 27-11-2025, tăng mạnh 16,56% so với cuối năm 2024, theo chia sẻ mới đây của đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Mức tăng này cao hơn nhiều so với mức tăng 11,47% của cùng kỳ năm 2024 so với cuối năm 2023 và cũng cao hơn mức tăng 15,09% của cả năm 2024.
Nhìn lại những năm trước đây, tăng trưởng tín dụng thường tập trung vào quí 4, đặc biệt là tháng cuối cùng trong năm, với mức tăng lên đến 3-4% chỉ trong vòng một tháng. Do đó, tín dụng trong năm 2025 có khả năng chạm mốc 20%, cao nhất trong 15 năm qua, đồng nghĩa dư nợ tín dụng có thể vượt mốc 18,8 triệu tỉ đồng.
Với mục tiêu tăng trưởng GDP phải vượt mốc 8% trong năm nay, trong khi Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng mới đây cho biết bão, lũ khiến GDP quí 4 giảm khoảng 0,1%, có thể nhà điều hành sẽ tăng cường nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách thúc đẩy tín dụng mạnh hơn nữa trong giai đoạn cuối năm.
Nếu không kiềm chế được đà tăng của lãi suất, chính sách nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khó có thể duy trì trong năm 2026. Vì vậy, nhà điều hành sẽ tìm giải pháp nhằm không để mặt bằng lãi suất quá cao ảnh hưởng đến chi phí vốn của doanh nghiệp, đến nhu cầu vay vốn đầu tư, sản xuất cũng như tiêu dùng.
Tuy nhiên, trước áp lực tín dụng tăng cao, mặt bằng lãi suất huy động tiền gửi đang có những biến động đáng lo ngại. Trong vòng một tháng trở lại đây, các tổ chức tín dụng (TCTD) bước vào cuộc đua tăng lãi suất huy động khá quyết liệt, đặc biệt ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân. Trong khi lãi suất có kỳ hạn dưới sáu tháng đã gần chạm mức trần 4,75%/năm tại một số ngân hàng, với kỳ hạn từ sáu tháng trở lên, các ngân hàng cạnh tranh gay gắt bằng các chương trình khuyến mãi và cơ chế cộng lãi suất ưu đãi cho khách hàng theo khung tiền gửi.
Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất vay mượn giữa các TCTD đã vọt lên trên mốc 7% với doanh số tăng mạnh, phản ánh nhu cầu thanh khoản rất lớn. Cụ thể, số liệu cập nhật gần nhất của NHNN đến cuối tuần qua (5-12-2025) cho thấy lãi suất qua đêm đã leo lên mức 7,37%, với doanh số giao dịch là 791.737 tỉ đồng. Các kỳ hạn một tuần và hai tuần cũng lần lượt chạm ngưỡng 7,09% và 7,35%.
Xu hướng lãi suất huy động ngày càng tăng mạnh đang gây ra không ít lo ngại, không chỉ có thể dẫn đến bất ổn vĩ mô, mà còn kìm hãm động lực nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng của nhà điều hành. Lãi suất tiền gửi tăng thì sớm hay muộn gì cũng sẽ kéo lãi suất cho vay tăng theo, điều này dĩ nhiên không chỉ ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn giai đoạn tới mà còn dẫn đến nguy cơ nợ xấu gia tăng.
Đại diện NHNN cho biết thời gian gần đây một số TCTD gia tăng nhu cầu thanh khoản. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, nhất là dịp cuối năm, bên cạnh việc cung ứng tiền qua kênh nghiệp vụ thị trường mở (OMO), NHNN đã triển khai nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ với các TCTD để ổn định thị trường tiền tệ.
Báo cáo ngành ngân hàng gần đây của MASVN lý giải chênh lệch giữa tăng trưởng tiền gửi và tín dụng bị nới rộng trở lại cho thấy mặt bằng lãi suất chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Sự phân hóa này nhiều khả năng phản ánh tâm lý thận trọng của khối doanh nghiệp trong bối cảnh kinh doanh còn bất định, khiến họ ưu tiên sử dụng tiền mặt cho vốn lưu động. Bên cạnh đó, trong khoảng thời gian này cũng tồn tại nhiều lo ngại liên quan đến việc lãi suất có thể điều chỉnh tăng, ảnh hưởng đến việc cơ cấu bảng cân đối.
Chỉ là nhất thời?
Dù vậy, không loại trừ khả năng diễn biến lãi suất huy động tăng mạnh thời gian qua chỉ mang tính nhất thời và khó có thể trở thành một xu hướng kéo dài. Đầu tiên, quá khứ cho thấy việc lãi suất tăng mạnh dịp cuối năm thường mang tính thời vụ, khi các ngân hàng giai đoạn này tìm mọi cách đẩy mạnh cho vay để tận dụng hết room tín dụng được giao, làm nền tảng để nhận được room tín dụng cao hơn cho năm kế tiếp.
Thứ hai, nhiều ngân hàng trung ương lớn trên toàn cầu, đơn cử như Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), vẫn đang trong lộ trình giảm lãi suất. Điều này sẽ phần nào hỗ trợ cho chính sách tiền tệ của các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Khi Fed tiếp tục giảm lãi suất, đô la Mỹ trên thị trường quốc tế có thể suy yếu, tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng sẽ ổn định hơn, tạo điều kiện kiềm chế lãi suất.
Điều quan trọng nhất là nếu không kiềm chế được đà tăng của lãi suất, chính sách nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khó có thể duy trì trong năm 2026. Vì vậy, nhà điều hành sẽ tìm giải pháp nhằm không để mặt bằng lãi suất quá cao ảnh hưởng đến chi phí vốn của doanh nghiệp, đến nhu cầu vay vốn đầu tư, sản xuất cũng như tiêu dùng.
Với lạm phát và tỷ giá tương đối ổn, NHNN có thể giữ lãi suất điều hành ở mức hiện tại để tránh tạo thêm áp lực lên nền kinh tế. Điều này giúp ổn định chi phí vốn, tránh “sốc” cho hệ thống ngân hàng, đồng thời vẫn hỗ trợ tăng trưởng tín dụng một cách có kiểm soát.
Nhà điều hành cũng tiếp tục điều tiết linh hoạt thanh khoản, tỷ giá, tăng cường sử dụng các công cụ ổn định vĩ mô, từ hút/bơm tiền qua OMO, sử dụng dự trữ ngoại hối, sẵn sàng can thiệp thị trường ngoại tệ nếu cần thiết, cũng như sử dụng nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống như cách đang thực hiện.
Về phần mình, các ngân hàng sẽ tập trung tăng vốn điều lệ, phát hành giấy tờ có giá để cải thiện tính bền vững của nguồn vốn, thay vì để phụ thuộc lớn vào kênh huy động ở thị trường 1 vốn rất dễ nhạy cảm với tình hình lãi suất. Các ngân hàng cũng có thể tìm cách cải thiện tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) để kéo chi phí vốn đầu vào xuống, bên cạnh việc tìm kiếm nguồn vốn tài trợ thương mại từ các định chế tài chính quốc tế với lãi suất thấp hơn.
Từ những yếu tố trên, kỳ vọng cuộc đua lãi suất hiện nay chỉ mang tính nhất thời và sẽ sớm kết thúc trong thời gian tới. Cũng cần lưu ý giai đoạn đầu năm mới, lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng có thể tăng mạnh theo yếu tố mùa vụ, với nguồn từ các hoạt động thưởng Tết, cũng như các doanh nghiệp thường tất toán nợ vay và hạn chế vay vốn đầu năm, do đó thanh khoản hệ thống thời điểm này cũng sẽ dồi dào trở lại.
