(KTSG Online) - Những khó khăn đến từ tình trạng ùn tắc kéo dài tại các cửa khẩu phía Bắc đã góp phần làm cho lượng xuất khẩu rau quả từ Việt Nam sang Trung Quốc trong hai tháng đầu năm bị sụt giảm. Tuy nhiên, điều này cũng thúc đẩy xu hướng chuyển dịch xuất khẩu rau quả sang các thị trường ngoài Trung Quốc, nhất là những thị trường khó tính, tiếp tục được thể hiện rõ nét.
Mặt hàng rau quả: chuyển hướng sang các thị trường khó tính, tăng tỷ trọng chế biến
Theo số liệu cập nhật của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu rau quả tháng 1-2022 chỉ đạt 293,21 triệu đô la Mỹ, giảm 2,1% so với tháng 12-2021 và giảm 5,3% so với tháng 1-2021; trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc tháng 1-2022 đạt 148,91 triệu đô la, chiếm 50,8% tổng kim ngạch nhóm hàng này của cả nước.
Các báo cáo đánh giá từ ngành công thương cho thấy dịch bệnh Covid-19 không gây ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất rau, củ, quả chế biến toàn cầu. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường có dân số lớn nhất thế giới là Trung Quốc này cũng giảm mạnh 18,5%. Cụ thể, rau quả Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc gặp nhiều khó khăn từ cuối năm 2021 đến nay, nhất là ở các cửa khẩu biên giới đường bộ phía Bắc, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đang ngày một giảm mạnh.... Xuất khẩu rau quả từ Việt Nam sang Thái Lan trong tháng 1-2022 đạt hơn 10 triệu đô la, giảm mạnh so với cùng kỳ 2021, với mức giảm lên tới 37,6%.
Ngoài Trung Quốc và Thái Lan, các thị trường xuất khẩu đáng chú ý khác của nhóm hàng rau quả Việt Nam là Mỹ (22,35 triệu đô la); Hàn Quốc (12,2 triệu đô la); Nhật Bản (11,8 triệu đô la)… Trong đó, thị trường Mỹ và Hàn Quốc có mức tăng trưởng mạnh. Cụ thể, xuất khẩu rau quả sang Mỹ tăng gần 70%, trong khi Hàn Quốc tăng gần 32%. Thị trường Nhật Bản cũng tăng trưởng hai con số ở mức 12%. Hoạt động xuất khẩu sang nhiều thị trường khó tính khác cũng tăng trưởng trong tháng 1-2022 so với cùng kỳ như: Úc tăng 45,7%; Hà Lan tăng 51,5%; Nga tăng 33,9%…
Vào năm ngoái, trị giá xuất khẩu hàng rau quả vào thị trường châu Âu và châu Mỹ đều có tốc độ tăng trưởng cao, trong đó xuất khẩu vào châu Âu đạt 303 triệu đô la, tăng 17,4% so với năm 2020; vào châu Mỹ đạt 271 triệu đô la, tăng 29,1% so với năm 2020. Nhờ vậy, thị phần của châu Âu trong tổng giá trị xuất khẩu rau quả Việt Nam đã tăng từ 7,9% trong năm 2020 lên 8,5% trong năm 2021; thị phần của châu Mỹ tăng từ 6,4% lên 7,6%. Trong khi đó, thị phần của châu Á giảm từ mức 82,2% xuống còn 80%, chủ yếu là do thị trường Trung Quốc bị sụt giảm trong tổng giá trị xuất khẩu rau quả Việt Nam.
Các chuyên gia nhận định, đang có sự chuyển dịch rõ nét về xuất khẩu rau quả sang các châu lục khác. Xu hướng chuyển dịch xuất khẩu sang các thị trường ngoài Trung Quốc, nhất là những thị trường khó tính, tiếp tục thể hiện rõ nét ngay trong tháng đầu năm 2022.
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), dịch Covid-19 được cho là không ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất rau, củ, quả chế biến toàn cầu. Ngược lại, nguồn cung rau quả chế biến tăng khi xuất khẩu sản phẩm tươi hoặc đông lạnh sụt giảm, buộc các nhà sản xuất phải chuyển hướng sang chế biến. Trong khi đó, giá cả, thời gian sử dụng và sự đổi mới là những động lực chính thúc đẩy sự gia tăng tiêu thụ trái cây và rau quả chế biến.
Trên thực tế, trong năm 2021 cơ cấu chủng loại hàng rau quả xuất khẩu của Việt Nam đã có sự dịch chuyển rõ rệt. Cụ thể, trong khi chủng loại hàng quả và quả hạch giảm tỷ trọng xuất khẩu, thì chủng loại sản phẩm chế biến lại tăng. Trị giá xuất khẩu chủng loại hàng rau quả chế biến trong năm 2021 chiếm 25,3% tổng trị giá xuất khẩu hàng rau quả, tăng 1,5 điểm phần trăm so với năm 2020. Ngay tại thị trường Trung Quốc, nơi mà lâu nay Việt Nam chủ yếu xuất khẩu rau quả tươi, các sản phẩm rau quả chế biến cũng đang có sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ.
Dự báo trong năm 2022, với nhu cầu sử dụng rau quả chế biến đang tiếp tục gia tăng trên toàn cầu do ảnh hưởng của Covid-19, ngành rau quả Việt Nam cần tiếp tục chuyển dịch mạnh về cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng sản phẩm chế biến, giảm xuất khẩu các sản phẩm tươi. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần đẩy mạnh đầu tư cho công nghệ xử lý, bảo quản sau thu hoạch và phát triển logistics phục vụ vận chuyển rau quả. Việc đẩy mạnh đầu tư cho chế biến sẽ giúp ngành hàng rau quả tăng cao giá trị xuất khẩu. Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư chế biến, việc tận dụng các cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, CPTTP… sẽ mang lại nhiều cơ hội cho rau quả Việt Nam.
Riêng đối với thị trường Trung Quốc, mặc dù tỷ trọng nhập khẩu hàng rau quả của Trung Quốc từ Việt Nam giảm, nhưng đây vẫn là thị trường tiềm năng. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý tuân thủ nghiêm ngặt các quy định nhập khẩu của Trung Quốc để tránh bị gián đoạn hoạt động xuất khẩu.
Trên thực tế, các hợp đồng xuất khẩu chính ngạch vào Trung Quốc đang được thực hiện tốt, bởi xuất khẩu chính ngạch có nhiều điều kiện ràng buộc hai bên bán và mua hơn. Đây cũng là giải pháp mà các bộ ngành khuyến cáo đến doanh nghiệp và người dân khi bán rau quả sang Trung Quốc.
Ngành nông lâm thủy sản: Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất trong 2 tháng đầu năm
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản ước đạt gần 14,2 tỉ đô la, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu ước đạt khoảng 8,0 tỉ đô la, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu ước trên 6,2 tỉ đô la, tăng 10,0%; xuất siêu gần 1,8 tỉ đô la, tăng 86,7% so với cùng kỳ năm trước.
Với trị giá trên 2,3 tỉ đô la, chiếm 28,2% thị phần, Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nông lâm thủy sản Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2022. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 69,9% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam tại thị trường Mỹ.
Về xuất khẩu nhóm nông sản chính ước đạt trên 3,2 tỉ đô la, tăng 10,2%; sản phẩm chăn nuôi đạt 54,1 triệu USD, giảm 3,5%; thủy sản đạt gần 1,5 tỉ đô la, tăng 47,2%; lâm sản chính đạt gần 2,9 tỉ đô la, tăng 17,0%.
Một số sản phẩm có giá trị xuất khẩu tăng gồm: cà phê tăng 35,6%; cao su tăng 6,6%; gạo tăng 22,3%; hồ tiêu tăng 43,8%; sữa và sản phẩm sữa tăng 11,1%; cá tra tăng 83,3%; tôm tăng 34,3%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 15,5%, …
Những mặt hàng giảm kim ngạch xuất khẩu, như: trà (chè) giảm 10,8%; rau quả giảm 12,3%, hạt điều giảm 2,4%,
Về thị trường xuất khẩu, Mỹ giữ vị trí đứng đầu với giá trị đạt trên 2,3 tỉ đô la (chiếm 28,2% thị phần), trong đó kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 69,9% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam tại thị trường này.
Đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc đạt gần 1,3 tỉ đô la (chiếm 16,2% thị phần), trong đó kim ngạch xuất khẩu nhóm cao su chiếm tới 33,3% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản vào thị trường này.
Đứng thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt gần 586 triệu đô la (chiếm 7,3% thị phần) và xuất khẩu nhóm sản phẩm gỗ lớn nhất, chiếm 44,8% giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản vào thị trường này.
Đứng thứ 4 là thị trường Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt khoảng 376 triệu đô la (chiếm 4,7% thị phần) và xuất khẩu nhóm sản phẩm gỗ lớn nhất, chiếm 51,6% giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản vào thị trường này.
Tổng hợp