Thứ bảy, 2/11/2024
35.6 C
Ho Chi Minh City

Lạm phát dưới mức mục tiêu và dư địa tăng trưởng cho thị trường

D. Nguyễn

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) – Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh từ giá hàng hoá thế giới tăng cao, nhưng vẫn kiểm soát tốt rổ hàng hoá nội địa. Lạm phát năm nay được kỳ vọng dưới mức mục tiêu 4% nếu không có sự kiện nào đặc biệt xảy ra, nhưng áp lực trong năm sau vẫn còn khá lớn khi Chính phủ vừa nâng mức lạm phát mục tiêu lên mức 4,5%.

Đây là nội dung chính được chia sẻ tại buổi toạ đàm với chủ đề “Đi tìm động lực thị trường trong bức tranh lạm phát”, được phát sóng ngày 24-11, nằm trong chuỗi toạ đàm “Giải mã thị trường chứng khoán” do Tạp chí Kinh tế Sài Gòn phối hợp với Công ty Chứng khoán ACB (ACBS) thực hiện.

Ông Tyler Cheung, Giám đốc phân tích Công ty chứng khoán ACB (ACBS), đánh giá cho đến thời điểm này Việt Nam đã làm khá tốt trong việc kiềm chế lạm phát, dù không phải hoàn toàn không bị ảnh hưởng từ lạm phát toàn cầu vốn đang tăng mạnh.

“Lạm phát toàn cầu được kỳ vọng trong khoảng 8-10%. Tại Việt Nam, chúng ta vẫn sẽ đạt mục tiêu dưới 4% do Chính phủ đề ra cho năm nay. Điều này cho thấy Việt Nam đã làm khá tốt so với thế giới”, ông Tyler nói.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 10 lạm phát tại Việt Nam vào khoảng 4,3% so với cùng kỳ, và tăng bình quân 2,9% trong 10 tháng đầu năm. Đại diện ACBS cho rằng kết quả này là nhờ Việt Nam kiểm soát tốt ba nhóm hàng lớn nhất trong rổ tính chỉ số giá CPI, thước đo lạm phát.

Đầu tiên là rổ hàng hoá lương thực thực phẩm, thành phần chiếm khoảng 1/3 chỉ số lạm phát. Theo ông Tyler, yếu tố quan trọng nhất là giá lương thực thực phẩm, đặc biệt là giá thịt heo và giá gạo, được kiểm soát tốt nhờ Việt Nam có thể tự cung cấp, tránh được nhập khẩu quá nhiều các mặt hàng lương thực cơ bản, do đó tránh được rủi ro gia tăng lạm phát từ nhập khẩu như các nước phụ thuộc vào nhập khẩu lương thực đang gặp phải.

Trong khi đó, đà tăng giá của nhóm Nhà ở và Vật liệu xây dựng (nhóm hàng hóa lớn thứ 2 trong rổ, chiếm tỷ trọng khoảng 20%) đã chậm lại dưới làn sóng tăng mạnh lãi suất toàn cầu, nhu cầu và giá vật liệu bất động sản có xu hướng đi xuống sau khi tăng mạnh hồi đầu năm.

Theo các chuyên gia, thị trường tài chính - chứng khoán có nhiều biến số không dự báo được, ảnh hưởng phần nào không chỉ lạm phát mà còn là bức tranh tăng trưởng kinh tế trong năm sau. Ảnh minh họa: Lê Vũ

Còn nhóm thứ ba là nhóm Giao thông (nhóm lớn thứ 3 với tỷ trọng khoảng 10%), nhưng tác động lên rổ CPI khá lớn vì tất cả các hàng hóa đều chịu tác động từ chi phí vận chuyển và giá xăng dầu tăng. “Đây cũng là nhóm hàng mà người dân dễ dàng cảm nhận nhất trong cuộc sống hàng ngày qua sự biến động của giá xăng dầu niêm yết tại các cây xăng”, ông Tyler nói.

Tuy nhiên, giá xăng trong nước đã hạ nhiệt dần trong thời gian gần đây, cùng với những nỗ lực từ phía chính phủ như giảm thuế xăng dầu. Do đó, ACBS cho rằng dù CPI nhóm Giao thông ghi nhận mức tăng cao nhất trong năm nay (bình quân tăng 13-14% trong 10 tháng đầu năm), nhưng vẫn chưa phải là là mối lo quá lớn.

Hiện tại và trong thời gian sắp tới, Việt Nam không nằm ngoài vòng xoáy tăng giá thế giới. Thị trường vẫn chịu ảnh hưởng bởi giá nguyên vật liệu của một số ngành hàng tăng cao theo giá thế giới. Ảnh minh họa: Lê Vũ

“Với 3 nhóm hàng lớn nhất trong rổ CPI, nhìn chung Việt Nam đều kiểm soát tốt nên chúng ta sẽ không thấy rủi ro quá lớn đối với CPI và lạm phát như tại các nền kinh tế lớn khác trên thế giới”, ông Tyler bình luận.

Lạm phát trung bình 10 tháng đầu năm chỉ tăng khoảng 2,89% so với trung bình cùng kỳ. Nguồn: ACBS

Tuy nhiên, Việt Nam không nằm ngoài vòng xoáy tăng giá thế giới. Thị trường vẫn chịu ảnh hưởng bởi giá nguyên vật liệu tăng cao ở một số mặt hàng khi giá thế giới tăng cao, ví dụ như giá phân bón, đại diện ACBS bổ sung thêm.

Đánh giá tương tự, TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Thị trường Tài chính, Đại học UEH, cho rằng lạm phát hiện nay chủ yếu đến từ chi phí đẩy hơn là yếu tố tiền tệ. Theo đó, cuộc chiến giữa Nga và Ukraine đã trực tiếp đẩy giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, dẫn đến toàn bộ giá hàng hoá trong nền kinh tế tăng. “Lạm phát chi phí đẩy là một trong những nguyên nhân chính khiến lạm phát tăng cao”, ông Huân nói.

Mặt khác, một nhân tố giúp kiểm soát lạm phát là việc duy trì sự ổn định của tỷ giá. “Tỷ giá là phòng tuyến cuối cùng để kiểm soát và bình ổn giá cả trong nước. Do đó chúng ta thấy NHNN cố gắng giữ tỷ giá tương đối ổn định”, ông Huân nhận định.

Theo ông Huân, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu đầu vào nhập khẩu. Do đó nếu không giữ ổn định thì gây áp lực lớn đến chi phí đầu vào doanh nghiệp, từ đó tác động đến giá cả hàng hóa đầu ra, từ đó ảnh hưởng đến giá hàng hóa trong nước tăng cao.

Bổ sung thêm, ông Trịnh Viết Hoàng Minh, Chuyên viên phân tích vĩ mô, Công ty chứng khoán ACB, cho rằng hiện nay xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là khối doanh nghiệp FDI, nên cần thiết giữ tỷ giá để ổn định chi phí đầu vào. “Việt Nam không thể kiểm soát được giá hàng hoá thế giới, nhưng có khả năng điều chỉnh tỷ giá nên phải giữ vững phòng tuyến này”, ông Minh bình luận.

Hiện nay, trong bối cảnh Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, tạo áp lực cho tỷ giá, NHNN cũng đã hai lần tăng lãi suất điều hành với 200 điểm phần trăm, cùng với các biện pháp tài khoá thì điều này cũng đã giúp giảm áp lực lạm phát tại Việt Nam, ông Tyler bình luận thêm.

Theo đại diện ACBS, từ nay đến cuối năm áp lực lạm phát ko quá lớn, chưa có yếu tố nào khiến rủi ro lạm phát tăng cao hơn những gì đang diễn ra. Lạm phát dự báo cả năm có thể ở mức 3,2-3,6%. Tuy nhiên, trong năm sau thì áp lực sẽ cao hơn khi Chính phủ đã nâng mục tiêu lạm phát từ mức 4% lên 4,5%.

“Chúng ta sẽ nhìn thấy lạm phát tăng nhẹ nhưng một lần nữa, với việc giá xăng trong nước đã hạ nhiệt, cùng với việc nhiều khả năng áp lực lạm phát tại một số các nền kinh tế lớn cũng hạ nhiệt trong thời gian tới, tôi không nghĩ áp lực về lạm phát tại Việt Nam trong năm 2023 là quá lớn, ông Tyler bình luận thêm.

Tuy nhiên, áp lực lạm phát vẫn là một còn đó. “Điều đầu tiên có thể thấy tác động chi phí đẩy sẽ xuất hiện rõ hơn trong năm sau, có thể không tăng đột biến nữa nhưng vẫn giữ ở mức cao, gây áp lực kỳ vọng lạm phát”, ông Minh phân tích.

Theo đó, các yếu tố ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát có thể là việc tăng lương, kỳ vọng tăng chi phí thuê nhà. Ngoài ra, gói hỗ trợ 487.000 tỉ đồng mới chỉ giải ngân khoảng 16-20%, cộng thêm áp lực đẩy mạnh đầu tư công cũng là yếu tố gây áp lực lên lạm phát.

Tương tự, theo đánh giá của ông Huân, năm sau có cột mốc quan trọng là tăng lương cơ sở. “Trong lịch sử thì khi tăng lương cơ sở thường kéo theo lạm phát”, ông Huân bình luận.

Mặt khác, thị trường vẫn còn tồn tại nhiều yếu tố bất định như cuộc chiến giữa Nga và Ukraine chưa có dấu hiệu kết thúc trong ngắn hạn. Rủi ro về sự bất ổn kinh tế vĩ mô thế giới vẫn rất căng thẳng trong năm sau.

“Có nhiều biến số mà chúng ta không dự báo được, ảnh hưởng phần nào không chỉ lạm phát mà còn là bức tranh tăng trưởng kinh tế trong năm sau. Vì vậy, chúng ta cần lường trước được kịch bản xấu nhất thì có ứng phó và đối phó cho phù hợp”, ông Huân nhìn nhận.

Theo ông Tyler, khi lãi suất thế giới tăng thì các thị trường chứng khoán trên thế giới giảm, điều này cũng tương đồng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Do đó, lãi suất tăng là một trong những nguyên nhân khiến thị trường đi xuống.

Tuy nhiên, lãi suất mới chỉ là một phần câu chuyện. Một nguyên nhân nữa là các chiến dịch chống tham nhũng từ Chính phủ, đặc biệt đối với lĩnh vực bất động sản, cũng góp phần tạo tâm lý tiêu cực trên thị trường. Sự đóng băng của thị trường trái phiếu trong nước dẫn đến sự thiếu hụt nguồn vốn của một số doanh nghiệp và khiến kỳ vọng tăng trưởng giảm. “Điều này làm cho tâm lý thị trường càng tiêu cực hơn”, ông Tyler nói.

Theo ông Tyler, áp lực lạm phát trong năm sau vẫn duy trì ở mức cao, đặc biệt là cần quan sát động thái của Fed, nếu vẫn tiếp tục quyết liệt thì Việt Nam có thể sẽ có những động thái tương tự trong năm sau.

Theo đó, các doanh nghiệp sẽ đối mặt với tăng trưởng lợi nhuận chậm lại do chi phí vốn tăng cao, hoặc người tiêu dùng sẽ bị giảm sức mua, hoặc kết hợp cả hai. Khi đó, thị trường chứng khoán có thể sẽ bớt hấp dẫn so với các kênh đầu tư khác.

Dự báo sang năm 2023, các doanh nghiệp sẽ đối mặt với tăng trưởng lợi nhuận chậm lại do chi phí vốn tăng cao, hoặc người tiêu dùng sẽ bị giảm sức mua, hoặc kết hợp cả hai. Khi đó, thị trường chứng khoán có thể sẽ bớt hấp dẫn so với các kênh đầu tư khác. Ảnh minh họa: Lê Vũ

“Nhà đầu tư có thể tạm chuyển qua các kênh đầu tư khác với lợi suất cao hơn như tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi… Chúng ta sẽ có thể thấy dòng vốn tạm thời rút ra khỏi thị trường chứng khoán và quay trở lại khi thị trường thuận lợi hơn”, ông Tyler bình luận thêm.

Còn ông Huân cho rằng thị trường đã bước vào thời kỳ lãi suất cao, do đó doanh nghiệp cần xem xét lại kế hoạch kinh doanh, dự án đầu tư để tính toán lại chi phí vốn và cả nhu cầu đang có khả năng bị suy giảm.

Mặc dù còn nhiều khó khăn và thách thức, tuy nhiên ông Huân cho rằng “trong nguy luôn có cơ hội”. Theo đó, trong bối cảnh kinh tế khó khăn mà Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng, thì các doanh nghiệp vượt qua được sẽ có cơ hội tạo đột phá, bứt xa hơn so với giai đoạn bình thường.

Còn đại diện ACBS cho rằng thị trường Việt Nam không vì những điểm khó khăn ở trên mà kém hấp dẫn. Theo đó, Việt Nam nằm trong số những quốc gia có tăng trưởng GDP cao nhất, sẽ là chất xúc tác thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp trên thị trường trong trung và dài hạn. Ngoài ra, dòng vốn đầu tư dài hạn vào Việt Nam vẫn rất mạnh.

Hiện nay, định giá thị trường về mức thấp nhất trong vòng 1 thập kỷ qua, chỉ số P/E ở mức khoảng 9,5 lần lợi nhuận. “Khó có thể nói thời điểm chính xác thị trường tạo đáy, nhưng với mức định giá thấp này, các nhà đầu tư dài hạn có thể tìm thấy cơ hội đầu tư vào những doanh nghiệp tốt, có bộ máy quản trị tốt, sức khỏe tài chính tốt, triển vọng tăng trưởng cao trong thời gian tới với mức định giá thấp”, ông Tyler nói.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới