(KTSG) - Tìm kiếm vật liệu và giải pháp thay thế trong bối cảnh thiếu cát san lấp tại các dự án giao thông ở đồng bằng sông Cửu Long là việc phải làm và làm cho sớm. Nếu không, các dự án sẽ chậm tiến độ và kéo lùi sự phát triển của đồng bằng.
- Sản xuất nông nghiệp ĐBSCL bị ảnh hưởng lớn bởi xâm nhập mặn đến sớm
- ĐBSCL: Những vật liệu nào thay thế khi nguồn cát cạn kiệt?
Nguồn cát ngày càng cạn kiệt
Tám dự án cao tốc đang triển khai ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cần khoảng 53,69 triệu mét khối cát san lấp để đắp nền đường và nhu cầu chủ yếu tập trung trong năm 2023, 2024. Tuy nhiên, trữ lượng cát san lấp hiện tại còn 37 triệu mét khối - tức là chỉ đáp ứng 70% nhu cầu, chưa kể các dự án đường bộ khác. Điều này có nghĩa, ngay cả khi những vướng mắc liên quan thủ tục khai thác mỏ vật liệu hiện nay được giải quyết thì nguy cơ thiếu cát cho các dự án cao tốc ở ĐBSCL vẫn hiện hữu.
Bên cạnh đó, Tổ chức quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) vừa công bố kết quả nghiên cứu ngân hàng cát cho ĐBSCL, cho thấy nguồn cát ngày càng cạn kiệt.
Theo báo cáo, trữ lượng cát ở đáy sông đo đạc được là 367-550 triệu mét khối, đây là lượng cát có vai trò quan trọng đối với sự ổn định của ĐBSCL. Ước tính lượng cát khai thác từ 2017-2022 ở mức 35-55 triệu mét khối/năm trong khi lượng cát từ thượng nguồn đổ về chỉ khoảng 2-4 triệu mét khối/năm do phần lớn bị giữ lại ở các đập thủy điện - tức là lượng cát lấy đi lớn gấp 15 lần so với con số được bổ sung.
Như vậy, với tốc độ khai thác hiện nay, trữ lượng cát tích lũy từ hàng trăm năm qua ở ĐBSCL sẽ cạn kiệt trong 10 năm tới. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định hình thái và khả năng chống chịu của đồng bằng.
Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh, với giải pháp sử dụng cát sông để đắp nền đường như hiện nay, trữ lượng của các mỏ cát đang được cấp phép khai thác trong khu vực ĐBSCL (An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long...) không đáp ứng đủ yêu cầu. “Nguồn tài nguyên cát thiên nhiên sẽ sớm cạn kiệt; đồng thời gây ra tình trạng sói mòn, sạt lở bờ sông, thu hẹp đất liền, làm thay đổi dòng chảy tự nhiên, tác động xấu đến môi trường, đời sống an sinh xã hội”, ông Sinh nói.
Ông Nguyễn Quang Hiệp, Phó vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng, cho biết các quốc gia có tốc độ xây dựng hạ tầng nhanh như Nhật Bản, Mỹ, Anh, Singapore và một số nước Trung Đông đã sớm bị cạn kiệt nguồn cát sông. “Kinh nghiệm này cho thấy vấn đề cạn kiệt nguồn cát sông sớm muộn cũng xảy ra ở Việt Nam nên cần phải tính đến vật liệu và giải pháp thay thế”.
Ba giải pháp sử dụng vật liệu thay thế
Tại hội thảo khoa học “Giải pháp sử dụng hiệu quả vật liệu xây dựng trong xây dựng công trình hạ tầng giao thông” do Bộ Xây dựng vừa tổ chức, ba phương án thay thế cát sông đã được phân tích trên nhiều góc độ.
Một là dùng cát biển để đắp nền thay thế cho cát sông. Từ cuối năm 2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện dự án đánh giá tài nguyên khoáng sản, phục vụ khai thác cát biển đáp ứng nhu cần san lấp các dự án hạ tầng giao thông, đô thị vùng ĐBSCL. Từ kết quả ban đầu của dự án, đã lựa chọn vị trí có tiềm năng khai thác đảm bảo hiệu quả kinh tế là vùng biển Sóc Trăng, cách bờ 10-25 ki lô mét, độ sâu 10-30 mét với tài nguyên dự báo gần 13 tỉ mét khối. Trong đó, có 355 triệu mét khối có thể làm cát bê tông, số còn lại có thể sử dụng làm cát xây trát và vật liệu san lấp.
Ban quản lý dự án Mỹ Thuận (Bộ Giao thông Vận tải) cũng đang thí điểm sử dụng cát biển trên đoạn dài 300 mét tại tuyến đường tỉnh 978 ở tỉnh Bạc Liêu (thuộc dự án cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2); kết quả bước đầu cho thấy sử dụng cát biển làm vật liệu xây dựng cơ bản đáp ứng các yêu cầu đề ra.
Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng cát biển với khối lượng lớn sẽ cần phải có đánh giá kỹ về tác động môi trường, hệ sinh thái biển, cây trồng nông nghiệp, nguy cơ lũ lụt. Để thay thế được cát sông, cần phải tiếp tục so sánh các yếu tố nhằm đảm bảo hài hòa các yếu tố kinh tế - kỹ thuật - môi trường. Trong đó, yếu tố môi trường cần phải được đánh giá đầy đủ cả ở hai nơi là nơi khai thác và nơi sử dụng.
Giải pháp thứ hai là sử dụng tro xỉ nhiệt điện làm vật liệu san lấp và nền đường ô tô. Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, nguồn cung tro, xỉ nhiệt điện từ 30 nhà máy nhiệt điện của nước ta rất lớn, mỗi năm có khoảng 16 triệu tấn. Hành lang pháp lý và kỹ thuật để sử dụng tro, xỉ nhiệt điện làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và vật liệu san lấp đã được hoàn thiện, ban hành. Các nhà máy nhiệt điện đang tích cực hỗ trợ các đơn vị xử lý, tiêu thụ để bù đắp chi phí vận chuyển tro xỉ đến các công trình giao thông có vị trí không quá xa so với nơi phát thải để sử dụng thay cát sông.
Hướng thứ ba là sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép thay thế một phần đường đắp. Hiện nay, năng lực sản xuất xi măng và thép của nước ta rất lớn, nguồn cung rất dồi dào. Như vậy, xây dựng đường trên cao bằng kết cấu bê tông cốt thép thay cho đường đắp bước đầu sẽ có nhiều thuận lợi.
Giải pháp này cũng có nhiều ưu điểm, như: (1) Giảm thiểu xung đột giao thông, không có điểm cắt ngang, đảm bảo luôn chạy được tốc độ cao; (2) Giải quyết được bài toán khan hiếm đất, cát đắp nền đường, bảo đảm được tiến độ xây dựng, tiết kiệm được thời gian thi công; (3) Giảm thiểu tác động môi trường, hệ sinh thái; (4) Phù hợp đối với những khu vực có địa hình đất yếu như ĐBSCL, địa hình chia cắt như Tây Bắc, Đông Bắc hoặc khu vực nhiều mưa lũ như miền Trung.
Phương án xây dựng cầu cạn sẽ rất hiệu quả nếu tính toán chi phí cho cả vòng đời của dự án với các tiêu chí kinh tế - xã hội - môi trường, bao gồm tổng chi phí bảo trì, theo thời gian sử dụng. Tuy nhiên, nhược điểm của giải pháp này là chi phí đầu tư cao.
Có thể thấy, giải pháp nào cũng có ưu, nhược điểm - và điểm chung là đều cần khá nhiều thời gian để có thể áp dụng vào thực tế. Dự án đánh giá tài nguyên khoáng sản, phục vụ khai thác cát biển của Bộ Tài nguyên và Môi trường kết thúc vào tháng 12-2024, lúc đó mới làm rõ chất lượng và tiềm năng cát biển thay thế cho cát sông. Việc thí điểm sử dụng cát biển ở Bạc Liêu dự kiến cuối năm nay mới kết thúc khâu theo dõi, quan trắc.
Nếu phương án này được duyệt, sẽ cần thêm thời gian tiến hành rà soát và xây dựng một số định mức kỹ thuật để làm căn cứ xây dựng đơn giá, xác định dự toán chi phí công trình. Trường hợp chọn phương án làm cầu cạn thì tám dự án cao tốc ở ĐBSCL sẽ phải điều chỉnh phương án thiết kế một số đoạn tuyến cũng như tổng mức đầu tư.
Theo kế hoạch, các dự án cao tốc ở ĐBSCL phải hoàn thành trong năm 2026. Với tình hình hiện tại - thiếu vật liệu san nền, các phương án thay thế đang trong giai đoạn nghiên cứu và còn khá ngổn ngang - nguy cơ chậm tiến độ đã rất rõ. Lúc này, các bộ, ngành liên quan phải sớm đề xuất Chính phủ, Thủ tướng các giải pháp hiệu quả và triển khai các bước tiếp theo. Nếu không nhanh chóng tháo gỡ được khó khăn thiếu vật liệu san nền, các dự án cao tốc ở ĐBSCL sẽ bị chậm tiến độ và kéo theo đó nhiều hệ lụy khó lường.
Thiếu cát ảnh hưởng đến giải ngân vốn đầu tư công
Trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - Xã hội 2023 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì tổ chức, tham luận Khơi thông dòng vốn đầu tư công, tạo động lực phục hồi của GS.TS. Phạm Hồng Chương, GS.TS. Tô Trung Thành và TS. Lê Thanh Hà (Đại học Kinh tế Quốc dân) đã trình bày thực trạng giải ngân vốn đầu tư công chậm và đưa ra các giải pháp khơi thông dòng vốn này, trong đó có đề cập đến việc một số dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải gặp khó khăn về nguồn cung cấp vật liệu (cụ thể là cát xây dựng), ảnh hưởng đến tiến độ, khối lượng nghiệm thu giải ngân vốn.
Theo đó, dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 có chiều dài hơn 720 ki lô mét, đi qua địa phận 12 tỉnh, thành phố, được chia thành 12 dự án thành phần vận hành độc lập với 25 gói thầu xây lắp. Sau khi khởi công đồng loạt 14 gói thầu đầu tiên vào ngày 1-1-2023, các gói thầu tiếp theo cũng lần lượt được khởi công và trên toàn tuyến đang nỗ lực triển khai thi công.
Theo Bộ Giao thông Vận tải, mục tiêu năm 2023 toàn bộ 12 dự án thành phần này sẽ hoàn thành 35% giá trị hợp đồng. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn vật liệu xây dựng, giá trị sản lượng sau nửa năm thi công chỉ đạt khoảng 5% giá trị hợp đồng, chậm khoảng 5% (theo kế hoạch sáu tháng đầu năm phải đạt 10%).
Tình trạng thiếu đất, cát đắp nền không chỉ xảy ra đối với các dự án cao tốc, dự án trọng điểm quốc gia mà còn ở các dự án xây dựng do địa phương làm chủ đầu tư. Dù đã bố trí vốn, lựa chọn được nhà thầu nhưng tiến độ thi công chưa thể như kỳ vọng vì thiếu vật liệu đắp nền.
Ngày 20-6-2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Văn bản 4776/BTNMT-KSVN gửi 37 địa phương hướng dẫn khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ các dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc được áp dụng cơ chế đặc thù. Tuy vậy, việc này là chưa có tiền lệ, với rất nhiều thủ tục phức tạp. Hiện nay, công tác xác định giá cát khai thác còn khó khăn do chưa có hướng dẫn, chưa có định mức.
Trong khi đó, quá trình phê duyệt và cấp phép cho các mỏ cát đã được đấu giá quyền khai thác đang diễn ra khá chậm chạp.... Các tác giả đề xuất các biện pháp cụ thể làm cho quy trình thực hiện hiệu quả hơn.
Phối hợp và đẩy nhanh quy trình xử lý hồ sơ và cấp phép: Các chủ đầu tư, UBND các huyện, thị xã, thành phố, và các đơn vị liên quan cần tăng cường sự phối hợp và thực hiện nhanh chóng các bước xử lý hồ sơ và cấp phép theo quy định của pháp luật;
Tối ưu hóa quy trình thẩm định và cấp phép: Sở tài nguyên và môi trường cần đẩy nhanh việc thẩm định và cấp phép... Điều này bao gồm việc ưu tiên giải quyết thủ tục hồ sơ đối với các dự án điều chỉnh giấy phép nâng công suất khai thác khoáng sản;
Hỗ trợ doanh nghiệp: Doanh nghiệp cần được hướng dẫn cụ thể và hỗ trợ trong việc thực hiện các thủ tục liên quan đến hồ sơ điều chỉnh chủ trương đầu tư nâng công suất khai thác các mỏ cát, cũng như báo cáo đánh giá tác động môi trường. Sở kế hoạch và đầu tư cần tiến hành thẩm định nhanh chóng và cung cấp ý kiến cho các dự án điều chỉnh giấy phép nâng công suất khai thác;
Rút ngắn thời gian thực hiện: Một trong những biện pháp quan trọng là rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục liên quan. Điều này cần được thực hiện mà không vi phạm quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo tiến độ và chất lượng của các dự án đường bộ cao tốc.
PV tổng hợp
TS. Lê Văn Cư, Viện trưởng Viện Kinh tế xây dựng:
Cần khuyến khích mở rộng phạm vi sử dụng cầu cạn
Theo tính toán của TS. Lê Văn Cư, chi phí xây dựng cao tốc ở ĐBSCL theo phương án cầu cạn bê tông cốt thép cao hơn sử dụng cát đắp nền khoảng hai lần. Tuy vậy, sử dụng cầu cạn có ưu điểm nổi bật là làm chủ được tiến độ thi công; nhu cầu giải pháp mặt bằng ít hơn; có khả năng giảm được giá thành nhờ các giải pháp thiết kế cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; ít chịu sự tác động của yếu tố môi trường trong quá trình khai thác và có tác động đến việc tăng khả năng tiêu thụ một số vật liệu chủ yếu (sắt thép, xi măng) trong quá trình thực hiện dự án...
Vì vậy, ông cho rằng, cần khuyến khích việc mở rộng phạm vi sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép trong xây dựng công trình giao thông ở khu vực ĐBSCL. Theo đó, đối với đường cao tốc cần xem xét phương án kết hợp sử dụng nền đường bằng cát đắp với sử dụng cầu cạn ở những đoạn tuyến nhất định để khắc phục bất cập trong quản lý, khai thác do tác động của yếu tố biến đổi khí hậu. Cần có phương án sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép trong xây dựng công trình giao thông của địa phương (không phải là đường cao tốc), nhất là khu vực bị sạt lở do biến đổi khí hậu.
Đối với các dự án cao tốc đang triển khai của khu vực ĐBSCL, cần rà soát kỹ trữ lượng cát, khả năng cung ứng cát để đáp ứng yêu cầu về số lượng và tiến độ của các dự án. Trường hợp không đáp ứng yêu cầu cần tiến hành xem xét để điều chỉnh phương án thiết kế của một số đoạn tuyến theo phương án sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép thay thế phương án sử dụng nền đường bằng cát đắp. Kèm theo đó là các giải pháp về quản lý chi phí đầu tư xây dựng của dự án.
Cần khuyến khích các nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới và ứng dụng kết quả nghiên cứu về cầu cạn bê tông cốt thép trong xây dựng công trình giao thông (dầm chữ U khẩu độ lớn sử dụng bê tông cường độ cao HPC và sử dụng bê tông cường độ siêu cao UHPC).
Giao nhiệm vụ nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, sử dụng đầy đủ phương pháp phân tích lợi ích - chi phí để phân tích đánh giá việc sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép và sử dụng nền đường bằng cát đắp trong xây dựng đường cao tốc ở nước ta.
cầu cạn rất nhiều ưu điểm nhất là lũ lụt
Vậy bộ ngành liên quan mấy năm nay làm gì mà đến giờ mới kêu lên:”thiếu cát”?
Giờ bơm cát biển vô cửa sông, cho rửa mặn rồi đem đi sử dụng.