Thứ Sáu, 12/12/2025
32.8 C
Ho Chi Minh City

Áp lực kép từ chi phí vốn lên biên lãi ròng của ngân hàng

Lê Hoài Ân (*) - Võ Nhật Anh (**)

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) - Trong những tháng qua chi phí vốn của ngân hàng tăng rõ rệt trên cả kênh huy động tiền gửi từ dân cư và kênh phát hành trái phiếu. Trong khi đó, lãi suất cho vay bình quân mới chỉ tăng nhẹ và vẫn thấp hơn so với thời điểm cuối năm trước.

Sự chênh lệch giữa tốc độ tăng chi phí đầu vào và mức độ điều chỉnh của lãi vay khiến biên lãi ròng tiếp tục bị thu hẹp, buộc các ngân hàng phải xem xét lại cách cơ cấu nguồn vốn cũng như tăng cường kiểm soát chi phí để duy trì hiệu quả hoạt động.

Nhìn tổng thể thì lãi suất huy động tiền gửi của hệ thống ngân hàng vẫn đang duy trì ổn định trong hai năm 2024-2025, từ đó góp phần hỗ trợ cho việc hấp thụ tín dụng của hệ thống. Tuy vậy, phía sau mức lãi suất niêm yết là một chuỗi điều chỉnh nhỏ nhưng liên tục, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đã bắt đầu nhiều đợt tăng lãi suất huy động gần đây, nhất là tại các kỳ hạn từ 6-12 tháng. Đặc biệt, một số ngân hàng quy mô nhỏ đã đưa ra mức lãi suất thực nhận cao hơn nhiều dành cho khách hàng lớn. Những diễn biến này cho thấy chi phí huy động thực tế đang tăng nhanh hơn so với trên danh nghĩa.

Trong khi chi phí đầu vào biến động mạnh, diễn biến ở đầu ra lại chậm rãi hơn rất nhiều. Lãi suất cho vay bình quân trong năm 2025 chỉ tăng nhẹ và vẫn thấp hơn cuối năm 2024. Trong bối cảnh áp lực tăng trưởng tín dụng vẫn còn lớn để hỗ trợ kinh tế tăng trưởng và khả năng hấp thụ lãi suất cao hơn của doanh nghiệp còn hạn chế, ngân hàng khó có thể điều chỉnh gia tăng mức lãi suất cho vay nhanh bằng tốc độ gia tăng của chi phí đầu vào.

Lãi suất huy động tăng nhanh và lãi vay tiếp tục neo ở mức thấp

Trước khi đi sâu vào các số liệu chi tiết, cần thấy rằng hệ thống ngân hàng đang vận hành dưới hai lực tác động ngược chiều. Một mặt, chi phí vốn liên tục gia tăng vào cuối năm do cạnh tranh huy động và nhu cầu gia tăng nguồn vốn trung và dài hạn. Mặt khác, mặt bằng lãi suất cho vay buộc phải được giữ ở mức có thể chấp nhận đối với doanh nghiệp và người dân nhằm duy trì sản xuất và hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Chính sự lệch pha giữa tốc độ tăng của chi phí đầu vào và khả năng điều chỉnh của lãi vay đã khiến biên lãi ròng tiếp tục bị thu hẹp.

Nhìn vào biểu đồ 1 chúng ta có thể thấy hai nhóm ngân hàng thương mại cổ phần lớn và nhỏ đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động ở kỳ hạn 12 tháng từ giữa tháng 10. Trong đó, các ngân hàng quy mô nhỏ có mức tăng lãi suất cao nhất khi tăng từ mức 5,21% vào giữa tháng 10 lên đến 5,35% vào cuối tháng 11. Trái lại, nhóm ngân hàng quốc doanh lớn nhờ lợi thế uy tín thương hiệu và tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn cao, vẫn duy trì lãi suất 4,68% mà không gặp áp lực thanh khoản. Nhìn tổng thể, mặt bằng lãi suất vẫn tiếp tục duy trì thấp hơn các chu kỳ trước, nhưng chuỗi điều chỉnh tăng lãi suất vào thời điểm cuối năm đã đủ để khiến chi phí vốn bình quân dịch chuyển đáng kể.

Bên cạnh đó, theo số liệu tổng hợp từ Widata, mức lãi suất cho vay bình quân phản ứng chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng của lãi suất huy động, dao động khoảng 6,55%/năm cho các giao dịch mới tùy thuộc vào ngân hàng và loại hình vay. Cách thiết kế sản phẩm vay cũng làm gia tăng độ trễ trong quá trình truyền dẫn chi phí. Đối với khoản vay ngắn hạn, việc cố định lãi suất trong khoảng 7-7,5%/năm trong 3-6 tháng đầu giúp doanh nghiệp dự báo dòng tiền tốt hơn, song lại khiến ngân hàng phải gánh áp lực cao hơn nếu lãi suất huy động tăng nhanh trong giai đoạn này. Sau khi chuyển sang lãi suất thả nổi 8-8,5%/năm, ngân hàng mới có thể thu hồi một phần chi phí. Với khoản vay trung và dài hạn, lãi suất cố định 7-7,75%/năm trong 6-18 tháng đầu tạo sự ổn định cho khách hàng khi triển khai dự án, nhưng đồng thời kéo dài thời gian ngân hàng phải hấp thụ chi phí vốn tăng. Trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp còn yếu về tiềm lực tài chính và mức độ chịu rủi ro đối với các khoản vay lãi suất cao hơn còn hạn chế thì ngân hàng khó có thể điều chỉnh lãi vay một cách mạnh mẽ mà không làm gia tăng rủi ro nợ xấu.

Khi hai chuyển động trái chiều cùng diễn ra thì kết quả tất yếu là biên lãi ròng bị thu hẹp. Biên lãi ròng vốn đã giảm so với giai đoạn lãi suất thấp sau dịch Covid-19 nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì xu hướng giảm nhẹ hoặc đi ngang ở vùng thấp. Để bảo toàn lợi nhuận, ngân hàng cần cân nhắc chuyển trọng tâm từ việc dựa vào chênh lệch lãi suất sang nâng hiệu quả sử dụng vốn và mở rộng các nguồn thu ngoài lãi để bổ sung. Những hướng đi quen thuộc bao gồm tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn, phát triển dịch vụ ngân hàng số để gia tăng thu phí, kiểm soát chặt chi phí vận hành và lựa chọn kỹ các khách hàng, lĩnh vực có hệ số rủi ro thấp hơn.

Chi phí vốn phát hành trái phiếu cũng gia tăng

Ở một tầng sâu hơn, có thể thấy diễn biến chi phí vốn không chỉ đến từ lãi suất tiền gửi tăng mà còn xuất phát từ cấu trúc cân đối giữa nhu cầu cho vay và khả năng huy động truyền thống. Khi tốc độ tăng trưởng tín dụng liên tục vượt lên trước, tỷ lệ cho vay trên huy động tiến dần về mức quy định và buộc ngân hàng phải tìm kiếm nguồn bù đắp thông qua thị trường vốn. Việc phát hành trái phiếu và các công cụ nợ trung và dài hạn vì vậy trở thành lựa chọn tất yếu nhằm duy trì thanh khoản, kéo dài kỳ hạn nguồn vốn và đảm bảo sự cân đối trong bảng cân đối kế toán.

So với diễn biến của lãi suất tiền gửi, lãi suất trái phiếu ngân hàng có nhịp tăng chậm hơn và mức độ tăng vừa phải hơn. Trong nửa đầu năm 2025, lãi suất trái phiếu ngân hàng có xu hướng giảm và đi ngang, bình quân quanh mức 5,75%/năm. Tuy nhiên, từ quí 3 đến các đợt phát hành gần đây, mức lãi suất này đã tăng lên vùng 6-6,5%/năm. Như vậy, chi phí vốn từ trái phiếu chỉ tăng thêm khoảng 0,3-0,5 điểm phần trăm, thấp hơn hoặc tương đương với mức tăng tại nhiều bậc lãi suất tiền gửi. Bù lại, ngân hàng có được nguồn vốn ổn định dài hơi hơn, thích hợp để tài trợ cho các khoản vay trung và dài hạn và giảm rủi ro sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. Về mặt cấu trúc, đây vẫn là lựa chọn hợp lý dù làm chi phí vốn bình quân tăng lên so với giai đoạn lãi suất thấp trước đó. Khi cộng dồn chi phí từ cả tiền gửi và trái phiếu, mặt bằng chi phí vốn mới của ngân hàng vì vậy cao hơn đáng kể so với các năm trước.

Trong bối cảnh chi phí vốn từ hai kênh chủ đạo đều tăng lên và lãi suất cho vay bình quân chỉ tăng rất chậm, triển vọng ngắn hạn của biên lãi ròng khó có thể tích cực. Nếu xu hướng này kéo dài, biên lãi ròng của ngành ngân hàng khả năng cao sẽ tiếp tục đà suy giảm. Sự phân hóa trong hệ thống vì vậy càng rõ nét khi những ngân hàng có tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn cao, nguồn thu phí lớn và danh mục tín dụng chất lượng tốt sẽ ít chịu áp lực hơn. Ngược lại, các ngân hàng phụ thuộc nhiều vào tiền gửi và phát hành trái phiếu với chi phí lớn sẽ chịu sức ép lợi nhuận mạnh hơn.

Ở góc nhìn dài hạn, xu hướng tín dụng tăng nhanh hơn huy động và sự phụ thuộc ngày càng lớn vào trái phiếu buộc ngân hàng phải đánh giá lại chiến lược quản trị tài sản và nguồn vốn. Việc kiểm soát tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để tránh rủi ro thanh khoản khi điều kiện vĩ mô thay đổi. Cùng với đó, kế hoạch đáo hạn trái phiếu trong những năm tới sẽ tạo áp lực tái cấp vốn, nhất là khi mức lãi suất mới có thể cao hơn, làm biên lãi ròng tiếp tục bị thu hẹp.

Bức tranh hiện nay cho thấy chi phí vốn của ngân hàng đang chịu áp lực ở cả kênh huy động tiền gửi và kênh trái phiếu. Điều này buộc ngân hàng cân nhắc điều chỉnh chiến lược, chuyển từ mô hình dựa chủ yếu vào chênh lệch lãi suất sang tối ưu hóa cơ cấu nguồn vốn. Đối với nhà đầu tư, điều này đòi hỏi một góc nhìn sâu hơn vào chất lượng bảng cân đối, cơ cấu nguồn vốn và định hướng tăng trưởng của từng ngân hàng thay vì chỉ nhìn vào lợi nhuận ngắn hạn.

(*) CFA
(**) UEL

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới