Thứ Năm, 25/12/2025
32.8 C
Ho Chi Minh City

Chật vật  vay vốn kích cầu

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Chật vật  vay vốn kích cầu

Trong ảnh là dây chuyền sản xuất bao bì của một doanh nghiệp ở Bình Dương. Ảnh: Lê Toàn.

(TBKTSG) - Theo báo cáo của các ngân hàng thương mại nhà nước, đến ngày 20-3, một tháng kể từ khi nguồn vốn kích cầu (hỗ trợ lãi suất) của Chính phủ được triển khai, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng đạt 151.903 tỉ đồng.

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, nhiều doanh nghiệp vẫn đang chật vật trong việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ lãi suất.

Rào cản thủ tục

Đa số doanh nghiệp đều cho rằng, thủ tục xét duyệt cho vay vốn rườm rà của ngân hàng dường như là rào cản lớn nhất đối với họ, cho dù doanh nghiệp đang rất bức thiết về vốn.

Ông Lê Quang Hiệp, Chủ tịch HĐQT Công ty Nhựa Đô Thành, cho biết việc tiếp cận vốn kích cầu, doanh nghiệp không biết bắt đầu từ đâu. Mặc dù chương trình hỗ trợ lãi suất đã được triển khai từ hơn một tháng nay nhưng doanh nghiệp vẫn loay hoay ở khâu làm thủ tục. Điều đáng nói là thời gian doanh nghiệp được hưởng vay hỗ trợ lãi suất chỉ kéo dài trong tám tháng, có nghĩa là thời gian thụ hưởng vốn vay ưu đãi của doanh nghiệp càng bị thu hẹp dần.

Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, thủ tục làm hồ sơ xin cấp vốn dày cả vài chục trang với đủ loại giấy tờ, chứng từ mà doanh nghiệp phải đáp ứng theo yêu cầu của ngân hàng.

Bà Phạm Thị Kim Tân, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH Công nghiệp bao bì VisingPack, cho biết gần một tháng trời, hồ sơ vay vốn của công ty hết “mang đến lại mang về”, và đến nay mới chỉ vay được khoản tiền hỗ trợ lương cho công nhân.

Riêng các khoản vay từ nguồn vốn hỗ trợ lãi suất nhằm phục vụ sản xuất thì công ty vẫn chưa tiếp cận được, do hồ sơ vay vốn bị ngân hàng bắt sửa đổi bổ sung liên tục, mỗi lần một ý.

Bà Tân dẫn chứng: trước đây ngân hàng không bắt tách phần thuế giá trị gia tăng, nhưng sau đó lại bắt tách ra. Sau khi rà soát, ngân hàng lại đòi phải có giấy chứng nhận của nhà cung cấp xác nhận nguyên liệu không phải là hàng nhập khẩu. “Không phải nhà cung cấp nào cũng sẵn sàng xác nhận việc này vì họ cũng có nhiều thứ để lo toan”, bà Tân nói. Chưa kể, để có được giấy xác nhận của nhà cung cấp, doanh nghiệp lại phải vay ngân hàng để thanh toán cho nhà cung cấp, và đương nhiên thời gian chờ đợi cũng phải tăng theo.

Một trong những rào cản mà nhiều doanh nghiệp vướng khi tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ lãi suất, theo ông Lâm Trọng Sơn, Giám đốc Công ty TNHH Gỗ sấy Gosaco, là doanh nghiệp không đủ khả năng để trả nợ quá hạn. Do vậy, doanh nghiệp cần được các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ để có thời gian trả nợ, không nên lấy yếu tố có nợ quá hạn để trì hoãn cho vay hỗ trợ lãi suất.

Đối với các doanh nghiệp nằm trong diện được vay vốn hỗ trợ lãi suất thì sự xét duyệt khắt khe của ngân hàng là một rào cản lớn. Thêm vào đó, quy định doanh nghiệp không có nợ từ nhóm 2 trở lên mới được vay đã khiến rất nhiều doanh nghiệp muốn vay nhưng phải đứng ngoài cuộc.

Ông Đỗ Văn Vinh, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Kinh doanh thủy sản Sài Gòn, cho biết do làm ăn thua lỗ trong năm 2008, nên công ty không nằm trong diện được vay vốn kích cầu, quy định này giống như “người bệnh nặng cần thuốc thì không cho, trong khi người khỏe mạnh thì lại được”. Ngành nghề chính của công ty là chế biến và nuôi trồng thủy sản, với 2.500 cán bộ công nhân viên, ông Vinh cho rằng trong tình hình khó khăn đầu ra như hiện nay, nếu không có nguồn vốn từ chương trình hỗ trợ lãi suất của Chính phủ, công ty ông khó mà vượt qua những khó khăn trong năm 2009.

Doanh nghiệp cần tháo gỡ

Nhiều doanh nghiệp cho rằng thủ tục rườm rà của các ngân hàng khiến họ ngần ngại vay vốn. Họ cho rằng ngân hàng cần thay đổi khâu thẩm định sao cho nhanh chóng. Một số khác cũng cho biết cách trả lời không rõ ràng từ các ngân hàng khiến doanh nghiệp rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, không dám nộp hồ sơ cho ngân hàng khác vì sợ “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”.

Ông Nguyễn Băng Tâm, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần Sản xuất - Kinh doanh - Xuất nhập khẩu Bình Thạnh (Gilimex), cho biết là doanh nghiệp có hơn 2.000 lao động, nguyên vật liệu nhâp khẩu chiếm 60%, mua trong nước chiếm 40%, mỗi năm Gilimex xuất khẩu ba lô, túi xách sang thị trường châu Âu, Mỹ, Nhật với doanh số trên 30 triệu đô la Mỹ. Riêng khoản nguyên liệu nhập khẩu của công ty, ngân hàng cho rằng không thuộc diện được vay. Các hợp đồng mua vật tư nguyên liệu trong nước công ty đã ký từ tháng 1-2009 để phục vụ sản suất cho năm 2009 cũng không thuộc diện được vay, cuối cùng Gilimex chỉ được vay 30% trong tổng số giá thành sản xuất để trả lương mà thôi.

Ông Tâm đề xuất các cơ quan chức năng cần xem các loại vật tư nguyên liệu doanh nghiệp đã mua và đã đưa vào sản suất trong tháng 2-2009 trở đi chứ không nên máy móc chỉ tính những hợp đồng đã ký sau tháng 2-2009, bởi những hợp đồng ký trước đó doanh nghiệp đã phải vay với lãi suất cao, hiện chưa thể trả nợ nổi.

Đồng thời nên tính tới nguồn vốn vay để nhập khẩu vật tư nguyên liệu sản xuất phục vụ xuất khẩu (khác với nhập khẩu để tiêu dùng trong nước), giải quyết công việc làm cho hàng ngàn lao động. Mặt khác, nên cho kéo dài thời hạn các hợp đồng vay thay vì chỉ trong vòng tám tháng như quy định.

NGUYỄN QUÂN

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới