Con cúi
Dương Văn Ni
(TBKTSG) - Cách nay hàng ngàn năm, con người đã biết tạo ra lửa bằng cách quẹt hai cục đá với nhau hay dùng hai cành cây khô cọ xát nhau nhiều lần. Nhưng ở đồng bằng sông Cửu Long quanh năm nước ngập bì bõm và mùa mưa thì như ai dội nước lên đầu, nên việc tìm ra cục đá hay cành cây khô để làm ra lửa là điều không dễ. Thế là người ta nghĩ ra cách để giữ lửa: con cúi.
Cúi ngửa giữ lửa ban ngày, cúi úp để núp ban đêm
Sở dĩ gọi là con cúi, có lẽ là do thấy nó giống như con cúi của người thợ dệt vải. Tức là để tránh rối chỉ, người ta bện những bó chỉ với nhau, nhưng không quá chặt, để người thợ dệt có thể rút từng sợi chỉ ra mà không làm rối tung cả bó chỉ.
Vật liệu dùng bện con cúi thường là rạ lúa mùa. Cây lúa mùa thường cao giàn, được cắt tận gốc, sau khi đập xong phần hột thì toàn bộ thân rạ này dùng để bện con cúi. Có hai loại cúi, cúi long ba và cúi long năm. Cúi long ba là cúi bện từ ba lọn rạ và cúi long năm là từ năm lọn rạ. Cúi long ba phổ biến hơn, do dễ bện. Từ bó rạ đã cột một đầu, rồi chia ra làm ba lọn đều nhau, sau đó bện như cách thắt bím tóc của các cô gái trẻ.
Có hai cách bện con cúi, bện theo cách ví hay là bện úp, tức là lọn rạ chính giữa được hai ngón tay cái đè xuống rồi lần lượt một cái đưa qua phải, một cái đưa qua trái, cứ thế cho đến khi hết chiều dài bó rạ.
Ngược lại là bện theo cách phá hay bện ngửa, theo cách này, lọn rạ chính giữa được đẩy từ dưới lên, rồi cũng lần lượt đưa qua phải hay đưa qua trái. Cũng không ai biết rõ vì sao phải bện úp hay bện ngửa, nhưng dân gian thì tin rằng “cúi ngửa giữ lửa ban ngày, cúi úp để núp ban đêm”.
Cúi khi bện xong thì phải trui sơ qua ngọn lửa, để cháy xém hết những cọng rạ lòe xòe, tránh cho cúi khỏi bị “ăn ngang hông” khi sử dụng. Đến mùa thu hoạch, nhà nào cũng bện vài chục con cúi và chúng được treo ngay ngắn trên vách nhà, chờ đến lúc xài.
Khi sử dụng thì người ta khoanh con cúi vào trong cái trả bằng đất, thường là cái trả bị mẻ miệng, bên trong có đựng một ít tro bếp để hút ẩm. Con cúi sau khi mồi lửa ở đầu, phần đuôi được khoanh vào giữa, phần đầu để ở vòng ngoài, giống như khoanh nhang muỗi đang cháy vậy. Gặp trời mưa, thì người ta có thể đậy lại bằng cái nón lá. Nhờ cái trả mẻ miệng nên có chỗ cho không khí ra vào, làm con cúi cháy không bị tắt.
Một con cúi có chất lượng tốt thì hình dáng phải cân đối, không được đầu to đuôi nhỏ, cháy ngún, không khói, than hồng, lâu tàn, tro trắng và nhất là không được “ăn ngang hông”; tức là khi cháy, thay vì cháy lần lượt từ đầu đến đuôi, thì lửa lại cháy lan ra làm con cúi đứt ra thành nhiều đoạn. Cúi bện xong để lâu thì trước khi sử dụng người ta “lấy ngót” bằng cách hớp một ngụm nước và phun mịn lên toàn thân con cúi, ít ở phần đầu và nhiều hơn ở phần đuôi, để cúi cháy đằm hơn.
Mặc dù làm bằng rơm rạ và cách bện con cúi cũng rất đơn giản, người lớn và trẻ con ai cũng làm được, nhưng để có một con cúi chất lượng tốt thì cần phải có kỹ năng giỏi. Bí quyết là ở cách bện, khi bàn tay lần dọc theo các lọn rạ, hễ thấy rạ mềm thì siết chặt hơn, ngược lại nếu rạ cứng thì thả lỏng hơn; nếu thấy non tay thì thêm rạ vào và nếu thấy già tay thì bớt rạ ra. Vì nếu rạ mềm mà bện lỏng tay thì khi cháy sẽ dễ phát thành ngọn lửa, cúi sẽ ăn ngang hông và mau tàn. Ngược lại, nếu rạ cứng mà bện chắc tay, cúi sẽ dễ bị tắt lửa hoặc ngún nhiều khói.
Có lẽ vì lý do này mà người ta bện ngửa (lỏng tay) hay bện úp (chặt tay) để phù hợp cho điều kiện giữ lửa ban ngày và ban đêm: “Cúi ngửa giữ lửa ban ngày, cúi úp để núp ban đêm”. Bởi ban đêm mà vác con cúi đi với ngọn lửa cháy phập phồng thì có khác gì cây đuốc, ví như đang la làng “bớ người ta, tôi đang ở chỗ này”.
Hồi trước, khi dọn ra ở riêng, trong gia tài của đôi vợ chồng trẻ bao giờ cũng có con cúi. Dân thương hồ sống trên sông rạch, rày đây mai đó thì ghe nào cũng có con cúi; xuồng đi giăng câu, đặt lọp hay người đi dọn cỏ phát hoang làm ruộng cũng mang theo con cúi. Người ta hay đặt cái trả đựng con cúi trong mái hiên nhà, để người qua đường có thể ghé xin đóm lửa, gọi là mồi con cúi. Hay để con cúi trước mũi ghe mũi xuồng để ghe xuồng khác xin mồi con cúi dễ dàng cặp vào.
Nhưng nếu tinh ý sẽ thấy đây là sự tinh tế của người xưa. Vì trong đêm khuya, trời tối mịt thì có biết ai là ai, liệu ai hiền ai dữ? Do đó, khi mồi con cúi thì người xin lửa phải thổi vào đầu lửa của con cúi đang ngún, để bùng lên ngọn lửa, rồi họ mới đưa con cúi tắt của mình vào đốt. Lúc này, chủ nhà hay chủ ghe đang đứng trong bóng tối sẽ nhờ ngọn lửa của con cúi mà xem mặt người xin mồi lửa.
Ngọn lửa cô đơn
Con cúi với ngọn lửa chỉ cháy âm ỉ trong bó rạ, nhưng nó đem lại không biết bao nhiêu ích lợi cho người dân. Từ việc hơ ấm mỏ ác cho trẻ sơ sinh, đốt một điếu thuốc rê, hay dọn sạch cỏ một cánh đồng để canh tác hoa màu.
Ở trong nhà thì mọi người đều phải để ý đến con cúi. Ai đi ra đi vô cũng đều để mắt đến con cúi, từ người già đến trẻ con, bởi vì khi con cúi tắt là phải gian nan chống xuồng đi cả buổi mới mồi được con cúi. Vì vậy, nó được nâng niu, gìn giữ từ người này đến người khác, từ nhà này đến nhà khác và từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Mặc dù có giá trị quan trọng như vậy trong đời sống hàng ngày nhưng không ai thắc mắc xem con cúi bắt đầu từ đâu? Và cũng không ai nghĩ chuyện mua bán con cúi bao giờ. Con cúi là của trời đất, là của mọi người.
Có lẽ con cúi bị “tuyệt chủng” là khi xuất hiện hộp quẹt với đá lửa và dầu lửa. Hộp quẹt giúp người ta làm ra lửa bất cứ lúc nào cần, lại gọn nhẹ dễ mang đi xa. Nhưng cũng từ đó, cái nguồn lửa cũng ít được mọi người quan tâm hơn. Thế là cái trả mẻ miệng đựng con cúi để trước hiên nhà, hay mũi ghe, mũi xuồng cũng lần lượt biến mất.
Họa hoằn lắm thì nhà này mới qua nhà kia xin lửa. Trong đêm, ghe xuồng ít khi cặp sát vào nhau nếu không là chỗ quen biết. Các thành viên trong nhà thì chẳng ai quan tâm là ngọn lửa còn hay tắt. Công việc nấu nướng cứ xem như là chuyện của phụ nữ, miễn sao có cơm ngon canh nóng là được.
Hóa ra sự văn minh tiến bộ dễ làm cho người ta trở nên lẻ loi hơn, cô đơn hơn chứ chưa chắc được hạnh phúc hơn. Bởi vì ngày nay không ai còn nhắc đến con cúi, nhiều người còn không biết con cúi là “con” gì?
Từ lúc được sinh ra, mỗi người đã mang trong mình một hơi ấm. Giống như ngọn lửa cháy âm ỉ trong mỗi con cúi. Khi lửa tàn là con cúi tắt, khi hết hơi ấm là con người về với cát bụi. Ngẫm ra, con người và con cúi có nhiều điểm khá giống nhau.
Mỗi người, ai cũng muốn cái ngọn lửa trong mình mang lại ích lợi cho người khác, có thể chỉ là việc sưởi ấm một bàn tay lạnh lẽo trong đêm mưa, đốt một điếu thuốc rê cháy dở dang trong những ngày trở gió, hâm nóng tô canh cho bữa cơm thân mật của gia đình, hoặc mang đến tia sáng dẫn đường cho mọi người trong đêm tăm tối.
Nhưng cái ước mơ đó chỉ hiện thực khi ngọn lửa còn được kiểm soát, như là con cúi còn nằm trong cái trả mẻ miệng, bởi vì khi mất kiểm soát thì nó sẽ là tai họa, nó có thể thiêu rụi hết mọi thứ, kể cả chính con người đã làm ra nó.
Cái trả mẻ miệng cũng giống như là nền văn hóa của một xã hội, nó giúp gìn giữ ngọn lửa trong mỗi con người an toàn và góp phần ngăn chặn những hành động xấu của mỗi cá nhân đối với xã hội.
Ngàn năm nữa con người vẫn còn cần tới lửa, bất kể là chúng ta đã đạt được trình độ phát triển cỡ nào. Và lửa cũng sẽ được gìn giữ bằng những phương tiện hiện đại hơn con cúi rất nhiều, nhưng xã hội thì chưa chắc sẽ an toàn hơn. Bởi vì một khi đã “giàu có” rồi thì đâu có ai còn xài con cúi nữa và trong mỗi gia đình cũng đâu còn chỗ nào dành riêng cho cái trả mẻ miệng.