Thứ Năm, 9/10/2025
31.1 C
Ho Chi Minh City

Đã đến lúc định giá lại thiên nhiên?

Hồng Văn

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

A.I

(KTSG Online) - Khi chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) bước sang trang mới, mở rộng thành chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES),  Việt Nam đang đứng trước cơ hội định giá lại thiên nhiên, không chỉ bằng lòng biết ơn hay hỗ trợ, mà bằng cơ chế thị trường thực thụ.

Thiên nhiên bắt đầu có “giá”

Một khu rừng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng ở Vườn quốc gia Bù Gia Mập, Đồng Nai. Ảnh: Đồng Nai

Việt Nam là một trong số ít quốc gia đang phát triển áp dụng thành công mô hình chi trả dịch vụ môi trường rừng (Payment for Forest Environmental Services - PFES). Đây là một chính sách kinh tế môi trường được Việt Nam áp dụng từ năm 2011 theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP và nay được mở rộng thành chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES) theo Luật Bảo vệ môi trường 2020.

Hiểu đơn giản đây là cơ chế người hưởng lợi từ rừng phải trả tiền cho người bảo vệ rừng, thay vì trông chờ ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp thủy điện, cấp nước, du lịch sinh thái, nuôi trồng thủy sản… đóng phí cho Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng, quỹ này chi lại cho người giữ rừng.

Theo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, từ năm 2011 đến 2023, chính sách trên đã thu và chi trả hơn 27.000 tỉ đồng, giúp 600.000 hộ dân có thu nhập ổn định và bảo vệ hơn 80% diện tích rừng có chủ. Riêng năm ngoái, cơ chế này thu được 3.760 tỉ đồng và hiện nay, diện tích rừng được chi trả dịch vụ môi trường rừng vượt 6,7 triệu héc ta, chiếm hơn 40% diện tích rừng có khả năng cung cấp dịch vụ môi trường.

Nguồn chi PFES giúp hàng trăm ngàn hộ dân có thu nhập ổn định, 3-5 triệu đồng/hộ/tháng và giảm đáng kể áp lực phá rừng, đặc biệt tại Tây Bắc và Tây Nguyên.

Dịch vụ môi trường rừng ban đầu chỉ tập trung vào rừng, nhưng hiện nay Việt Nam đang mở rộng sang khái niệm rộng hơn là chi trả dịch vụ hệ sinh thái (Payment for Ecosystem Services – PES). Nôm na là không chỉ rừng, mà các hệ sinh thái biển, đất ngập nước, đa dạng sinh học, carbon rừng, cảnh quan tự nhiên đều có thể được định giá và chi trả. Việc mở rộng chi trả dịch vụ môi trường rừng thành chi trả dịch vụ hệ sinh thái cho phép bổ sung các dịch vụ mới như hấp thu carbon, bảo tồn cảnh quan du lịch, đa dạng sinh học hay điều tiết khí hậu vùng ven biển.

Đây là bước chuyển từ “trợ cấp tiền cho bảo vệ rừng” sang “thị trường hóa dịch vụ sinh thái”, tức “anh sử dụng dịch vụ của tôi thì trả tiền chứ không chỉ hỗ trợ hay trợ cấp”, đưa bảo tồn rừng, đa dạng sinh học trở thành một phần của phát triển kinh tế. Tuy nhiên, PFES hiện vẫn thiên về mô hình nội địa, chưa gắn kết mạnh với dòng tài chính quốc tế như tín chỉ carbon, tín chỉ đa dạng sinh học hay trái phiếu bảo tồn.

Tài sản thiên nhiên, phần thiếu trong GDP

Theo Ngân hàng Thế giới, tổn thất do suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường làm giảm 3 - 5% GDP của Việt Nam mỗi năm. Nếu chỉ tính phần tăng trưởng “trên giấy”, mà không trừ phần hao mòn thiên nhiên, chúng ta đang đánh giá sai năng lực thực của nền kinh tế.

Các chuyên gia gọi đó là hiện tượng “chi tiêu vốn tự nhiên như chi tiêu thu nhập”: rừng, sông, biển, đất ngập nước bị khai thác cạn kiệt, nhưng giá trị tái tạo của chúng không được tính vào chi phí phát triển hay đầu tư công.

Thiên nhiên vẫn là nền tảng của mọi ngành: nông nghiệp dựa vào đất và nước, du lịch dựa vào cảnh quan, năng lượng dựa vào sông và gió, còn đô thị dựa vào khả năng điều hòa khí hậu và hấp thu nước mưa. Thế nhưng, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống hạch toán tài sản thiên nhiên trong GDP – điều mà Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị từ năm 2012 thông qua khung SEEA (System of Environmental-Economic Accounting).

Một khu rừng ở Huế có chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng.

Câu hỏi không chỉ là “thiên nhiên có giá bao nhiêu”, mà là chúng ta đang mất bao nhiêu mỗi năm khi giá trị đó chưa được ghi nhận. Do vậy, nếu chỉ dừng lại ở rừng và nước, hai dịch vụ dễ đo đếm thì cơ chế chi trả sẽ vẫn bỏ sót phần lớn “tài sản vô hình” của thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ là rừng, mà là một hệ thống sống gồm rừng, đất, nước, không khí, biển và sinh vật. Nếu chỉ định giá phần rừng mà bỏ qua phần còn lại, nền kinh tế sẽ tiếp tục ghi nhận “thiên nhiên bằng 0” trong sổ sách, nghịch lý kéo dài hàng chục năm qua.

Định giá lại để quản lý và đầu tư bền vững

Bản chất chi trả dịch vụ hệ sinh thái là biến giá trị môi trường thành dòng tiền để người bảo vệ được hưởng lợi, người sử dụng phải trả phí, và Nhà nước làm trọng tài điều phối. Khi PFES được mở rộng sang PES, Việt Nam có thể bước sang giai đoạn mới: thiên nhiên được coi là vốn đầu tư, không chỉ là phúc lợi công cộng.

Điều 138 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, quy định: Chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên là việc tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên trả tiền cho tổ chức, cá nhân cung ứng giá trị môi trường, cảnh quan do hệ sinh thái tự nhiên tạo ra để bảo vệ, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên.

Doanh nghiệp du lịch có thể trả phí cho việc bảo tồn cảnh quan, công ty nước sạch trả cho dịch vụ điều tiết nguồn nước, khu công nghiệp trả cho khả năng hấp thu khí thải của rừng ngập mặn, hoặc đô thị chi trả để duy trì không gian xanh, tránh ngập lụt. Khi đó, thiên nhiên trở thành một phần của dòng chảy tài chính, thay vì bị xem là “miễn phí”.

Một số địa phương đã thử nghiệm. Ở Lâm Đồng, việc mở rộng PFES sang du lịch sinh thái và hấp thu carbon giúp thu thêm hơn 150 tỉ đồng/năm. Ở Quảng Nam cũ, mô hình chi trả cảnh quan rừng cho du lịch Cù Lao Chàm và khu sinh thái Mỹ Sơn đã tạo nguồn quỹ ổn định để bảo tồn rừng và đa dạng sinh học.

Tuy nhiên, để PES thật sự vận hành, cần một hệ thống định giá chuẩn mực, có dữ liệu, cơ sở khoa học và cơ chế pháp lý minh bạch, tránh “định giá tượng trưng” như từng xảy ra với tín chỉ carbon.

Từ chi trả sang đầu tư cho tương lai xanh

Định giá lại thiên nhiên không chỉ để thu phí hay làm đẹp sổ sách. Quan trọng hơn, nó định hướng đầu tư phát triển bền vững: một đồng chi cho bảo tồn rừng đầu nguồn có thể tiết kiệm hàng chục đồng cho xử lý nước, chống lũ hay giảm phát thải.

Nếu thiết kế tốt, PES có thể hình thành thị trường dịch vụ hệ sinh thái, kết nối Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Đây sẽ là bước đệm để Việt Nam tham gia sâu hơn vào thị trường carbon, tín chỉ đa dạng sinh học và tài chính xanh toàn cầu.

 Ủy ban Kinh tế Liên Hợp Quốc về  Châu Âu (UNECE) định nghĩa Chi trả cho Dịch vụ Hệ sinh thái (PES) là “một giao dịch hợp đồng giữa người mua và người bán cho một dịch vụ hệ sinh thái, hoặc một hoạt động sử dụng/quản lý đất có khả năng đảm bảo dịch vụ đó”

Từ PFES đến PES không chỉ là mở rộng phạm vi chi trả, mà là thay đổi cách nhìn về thiên nhiên: từ “tài nguyên thiên nhiên cho không” thành “tài sản cần được định giá, hạch toán và đầu tư”.

Đã đến lúc định giá lại thiên nhiên – không chỉ bằng con số, mà bằng chính sách, thể chế và hành động đầu tư thực tế. Nếu không, cái giá phải trả sẽ không nằm trên giấy tờ, mà trong những mùa lũ, mùa hạn và những vùng đất không còn màu xanh.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới