Thứ Năm, 27/11/2025
32.8 C
Ho Chi Minh City

Đất miền Tây ‘mệt mỏi’ sau thâm canh: chuyện hồi sức không chỉ nằm ở phân hữu cơ

Trung Chánh

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) – “Sức khoẻ” đất nông nghiệp nói chung và đất lúa nói riêng ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang xuống cấp khi những tác động bất lợi diễn ra ngày càng mạnh hơn. Để phục hồi dưỡng chất cho đất nên “chữa” phần ngọn hay xử lý từ gốc của vấn đề?

"Sức khoẻ" đất nông nghiệp nói chung và đất lúa nói riêng ở ĐBSCL đang suy giảm. Ảnh: Trung Chánh

ĐBSCL được hình thành qua hàng ngàn năm nhờ sự bồi đắp phù sa. Vùng có 4 nhóm đất chính, bao gồm thứ nhất là nhóm đất phù sa ven sông Tiền và sông Hậu, với diện tích khoảng 151.000 héc ta, chiếm gần 4% diện tích đất tự nhiên, phân bố dọc hai bên bờ sông Tiền sông Hậu của các địa phương: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Vĩnh Long.

Nhóm thứ hai là đất phù sa xa sông Tiền và sông Hậu, với diện tích khoảng 895.000 héc ta, chiếm gần 24% diện tích đất tự nhiên của vùng, phân bố rải rác ở tất cả các địa phương ĐBSCL.

Nhóm thứ ba là đất phèn, với diện tích 62.619 héc ta, chiếm khoảng 1,6% diện tích đất tự nhiên của vùng, phân bố ở vùng trũng thấp thuộc huyện Long Mỹ, thị xã Long Mỹ, thành phố Vị Thanh, huyện Phụng Hiệp của tỉnh Hậu Giang cũ và các vùng trũng thuộc khu vực Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên.

Cuối cùng là nhóm đất nhiễm mặn với diện tích khoảng 603.000 héc ta, chiếm khoảng 16% diện tích đất tự nhiên của ĐBSCL, phân bố ở khu vực phía Nam tỉnh sóc Trăng cũ, Vị Thanh, Long Mỹ của tỉnh Hậu Giang cũ, An Minh, An Biên của tỉnh Kiên Giang cũ, khu vực Bán đảo Cà Mau và vùng ven biển của các địa phương ĐBSCL.

“Sức khoẻ” đất xuống cấp

TS Nguyễn Quang Hải, Phó viện trưởng Viện Thổ nhưỡng Nông hoá, cho biết đất trồng lúa khu vực ĐBSCL khoảng 1,9 triệu héc ta, trong đó, phần diện tích có độ phì cao khoảng 367.000 héc ta, chiếm 19,3%; đất có độ phì ở mức khá là 609.000 héc ta, chiếm 32%; đất có độ phì ở mức trung bình và thấp lần lượt là 893.000 héc ta, chiếm 47% và 33.400 héc ta, chiếm khoảng 1,7%.

Thực trạng nêu trên có thể thấy khoảng một nửa diện tích đất sản xuất lúa ở ĐBSCL có độ phì ở mức trung bình và thấp.

Trong khi đó, đối với thoái hoá đất, trong một dự án điều tra, đánh giá tài nguyên đất được triển khai năm 2020, cho thấy với tổng diện tích điều tra là 11,522 triệu héc ta, thì 44% diện tích bị thoái hoá. Trong đó, với vùng ĐBSCL, diện tích điều tra là 2,62 triệu héc ta, thì 392.000 héc ta bị thoái hoá.

“Sức khoẻ” đất nông nghiệp nói chung và đất lúa nói riêng tại ĐBSCL ở thời điểm hiện tại, nếu được điều tra, đánh giá lại, thì khả năng xuống cấp còn nghiêm trọng hơn do xói lở, khô hạn, xâm nhập mặn cũng như thâm canh sản xuất dẫn đến.

Trong báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM) thực hiện khi đề cập đến các thay đổi trạng thái tự nhiên đã nhấn mạnh: thâm canh tăng vụ tạo ra những hệ luỵ nghiêm trọng cho ĐBSCL, bao gồm vấn đề “sức khoẻ” đất.

Theo đó, giai đoạn 1970-1980, vùng ĐBSCL sản xuất lúa chỉ hai vụ/năm, trong đó, vụ Hè thu từ tháng 4 đến tháng 7 và Đông xuân từ tháng 12 đến tháng 2; thời gian còn lại trong năm là mùa nước nổi từ tháng 8 đến 11 hoặc nhiễm mặn vào tháng 3,4.

Tuy nhiên, lúa vụ 3 đã hình thành từ giữa thập niên 1980 tại những vùng có điều kiện đê bao chủ động. Sau này, lúa vụ 3 được mở rộng diện tích dần, thậm chí được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khuyến khích mở rộng để tăng sản lượng.

Chủ trương thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích đã giúp ĐBSCL đạt những kết quả ấn tượng về mặt sản lượng. Trong đó, nếu những năm 1975, sản lượng lúa ĐBSCL chỉ đạt khoảng 4 triệu tấn, thì đến 2010 nhảy vọt lên 20,7 triệu tấn và hiện mỗi năm ĐBSCL có khoảng 24 triệu tấn lúa.

Chạy đua theo sản lượng khiến chất lượng tài nguyên đất của ĐBSCL bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là ở những khu vực đê bao khép kín, ruộng đồng không nhận được phù sa. Điều này, khiến năng suất lúa giảm, dịch bệnh gia tăng.

Tuy nhiên, để đảm bảo về mặt năng suất, nông dân đã tăng sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Điều này, càng khiến đất bị suy kiệt nghiêm trọng hơn về mặt “sức khoẻ”, trong khi lợi nhuận từ hoạt động sản xuất lại…. đi xuống!

Theo ông Hải, kết quả theo dõi việc sử dụng phân bón cho thấy liên tục tăng từ năm 1961 đến 2022. “Lượng phân bón sử dụng trên mỗi héc ta tăng khoảng 10 lần so với giai đoạn trước. Việt Nam là 1 trong 20 quốc gia sử dụng phân bón nhiều nhất trên thế giới, tính theo lượng bón/héc ta. Trong khi đó, với thuốc bảo vệ thực vật, trung bình mỗi héc ta một năm sử dụng khoảng 6 lít hoặc 6 kg", ông Hải cho biết

Một nghiên cứu canh tác lúa vụ 3 suốt 15 năm ở tỉnh An Giang (theo Gernado and Tonneijck, 2017), cho thấy khi sản xuất lúa 2 vụ/năm, tiền bán lúa đạt 2.600 đô la Mỹ/héc ta/năm, trong khi chi phí đầu tư là 800 đô la Mỹ/héc ta/năm (phân 360 đô, thuốc trừ sâu 350 đô và tiền bơm nước 100 đô), đạt lợi nhuận 1.790 đô la Mỹ/héc ta/năm.

Tuy nhiên, khi làm lúa vụ 3, tiền bán lúa (trong 5 năm đầu) đạt 3.900 đô la Mỹ/héc ta/năm, trong khi chi phí đầu tư là 1.605 đô la Mỹ/héc ta/năm (phân là 800 đô, thuốc trừ sâu 625 đô và tiền bơm nước 180 đô), lợi nhuận đạt 2.295 đô la Mỹ/héc ta/năm

Còn tính trong 15 năm, lợi nhuận sản xuất lúa vụ 3 chỉ còn 1.340 đô la Mỹ/héc ta/năm. Bởi, chi phí đầu tư tăng lên 2.110 đô la Mỹ/héc ta/năm (phân là 1.200 đô, thuốc trừ sâu 730 đô và tiền bơm nước là 180 đô), trong khi tiền bán lúa là 3.450 đô la Mỹ/héc ta/năm.

Rõ ràng, làm lúa vụ 3 trong thời gian dài đã dẫn tới suy kiệt tài nguyên đất, trong khi dịch bệnh tăng nên phần chi phí đầu tư cho phân, thuốc tăng, “bào mòn” lợi nhuận của nông dân, thậm chí còn thấp hơn lúc làm lúa 2 vụ mỗi năm.

Ngoài những vấn đề trên, việc đê bao mở rộng diện tích lúa ở ĐBSCL đã dẫn đến những hệ luỵ khác trên khắp Đồng bằng, đó là môi trường ở nông thôn xuống cấp, cơ sở hạ tầng bị thiệt hại do ngập lụt, xói lở mở rộng, gây nên những tổn thất về mặt kinh tế- xã hội.

Theo ông Hải, “sức khoẻ” đất suy giảm còn chịu tác động bởi biến đổi khí hậu, dẫn đến khô hạn, xâm nhập mặn. Hệ thống đập (thuỷ điện) trên lưu vực sông Mekong cũng khiến việc vận chuyển phù sa bồi đắp cho ĐBSCL bị sụt giảm rất lớn, ảnh hưởng tới độ phì của đất. Từ 1997-2021, lượng phù sa vào ĐBSCL trung bình mỗi năm giảm 2,2%.

Qua những phân tích nêu trên, rõ ràng “sức khoẻ” đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng của ĐBSCL đang bị suy giảm đáng kể và có ảnh hưởng lớn đến đời sống, kinh tế của người dân khu vực này.

"Chữa lành vết thương" đất ĐBSCL nên xử lý từ gốc. Ảnh: Trung Chánh

Xử lý phần ngọn có giải quyết được?

Trước thực trạng nêu trên, việc phục hồi “sức khoẻ” đất của vùng ĐBSCL là điều cấp thiết, cần sớm có giải pháp xử lý.

Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Chuyên gia Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ)- đơn vị đang phối hợp với các cơ quan liên quan của Việt Nam để cải tạo đất lúa ở ĐBSCL- kỳ vọng qua việc sử dụng phân hữu cơ (compost) sản xuất từ rơm rạ sẽ giúp phục hồi “sức khoẻ” đất của vùng ĐBSCL.

Theo đó, đơn vị này cùng các đối tác liên quan đã hỗ trợ một số hợp tác xã ở ĐBSCL ứng dụng cơ giới hoá sản xuất phân compost để bón lại cho ruộng đồng. “Các giải pháp về compost và kỹ thuật đều giúp cải thiện chất lượng đất cũng như đặc tính lý hoá đất và vi sinh vật đất”, ông Sơn cho biết.

Qua triển khai thực tiễn cho thấy khi bón phân hữu cơ sản xuất từ rơm rạ và than sinh học (biochar) từ trấu kết hợp luân canh cây trồng, thì chất lượng đất, pH đất đều cải thiện và tăng độ hữu dụng của đất.

Việc ứng dụng giải pháp hữu cơ để phục hồi đất đã chứng minh được hiệu quả ở những mô hình- là giải pháp hỗ trợ phục hồi dưỡng chất đất cho ĐBSCL. Thế nhưng, với thực trạng như đã nêu ở trên, giải pháp này chưa thể giải quyết được phần gốc câu chuyện đất của ĐBSCL.

Để giải quyết vấn đề, PSG-TS Trần Văn Dũng đến từ khoa Khoa học đất thuộc Trường nông nghiệp (Đại học Cần Thơ), nhấn mạnh phải giảm thâm canh lúa vụ 3 cũng như thực hiện luân canh cây trồng là giải pháp quan trọng để cải tạo đất. “Luân canh giúp giảm ngộ độc hữu cơ, tăng hoạt động sinh học đất, hạn chế sâu bệnh và nâng cao năng suất”, ông cho biết.

Như vậy, việc giảm lúa vụ 3, tạo điều kiện cho đồng ruộng được tiếp nhận phù sa sẽ là giải pháp căn cơ. Bởi lẽ, trong một thời gian dài, thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích lúa vụ 3 là nguyên nhân rất lớn khiến chất lượng đất suy giảm.

PGS- TS Lê Anh Tuấn, Nguyên phó viện trưởng Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu (nay là Viện Mekong) thuộc Đại học Cần Thơ, cho biết nếu không quản lý nước tốt, đất không thể có được chất lượng tốt. “Ông bà mình ngày xưa đã đúc kết, chỗ nào dòng sông chảy mạnh hay dao động mực nước cao, thì cuộc sống ở đó càng phồn thịnh”, ông nói.

Theo dẫn chứng của ông Tuấn, ở những vùng đê bao làm 3 vụ lúa hay khu vực cống ngăn mặn đã xảy ra tình trạng vi sinh vật hiếu khí bị thay thế bằng vi sinh vật yếm khí, tạo ra độc chất hữu cơ trong đất và chất lượng nước cũng bị suy giảm.

Từ vấn đề nêu trên, phải có chính sách quản lý nước ở ĐBSCL đối với các vùng ngập sâu, vùng giữa, vùng mặn để có biện pháp xử lý phù hợp. Bởi lẽ, khi công trình chặn ở một vùng đất, nó sẽ ảnh hưởng toàn bộ canh tác bên trong.

Ông Tuấn nhấn mạnh, vấn đề của ĐBSCL không thể giải quyết bằng cách nâng cao chất lượng đất từng chút được, mà phải đi từ gốc của vấn đề. “Việc làm này giống như chúng ta đang giải quyết cái ngọn, mà không nhìn cái gốc dẫn đến sự suy giảm sức khoẻ đất”, ông nhấn mạnh.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới