Thứ Sáu, 30/05/2025
27 C
Ho Chi Minh City

Dệt may Việt Nam: Near-shoring và chinh phục thị trường nội địa

Hoàng Hạnh

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) - Rủi ro của ngành dệt may trước chính sách thuế quan của Mỹ và bối cảnh thương mại toàn cầu bất ổn, khó đoán định đòi hỏi Việt Nam phải có các biện pháp ứng phó có tính chất bền vững.

Kinh tế Sài Gòn ghi lại các quan điểm từ Phó giáo sư Rajkishore Nayak, giảng viên ngành Cử nhân Quản trị doanh nghiệp thời trang và bà Corinna Joyce, Chủ nhiệm ngành Cử nhân Quản trị doanh nghiệp thời trang cùng thuộc Đại học RMIT Việt Nam.

PGS. Rajkishore Nayak (trái) và bà Corinna Joyce (phải), Đại học RMIT Việt Nam.

Hình thành chuỗi cung ứng near-shoring

KTSG: Dệt may là một trong những nhóm ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng lại là ngành dễ bị tổn thương, không chỉ bởi chính sách thuế quan của Mỹ mà còn do cuộc đụng độ thương mại Mỹ - Trung Quốc. Ông đánh giá như thế nào về tình thế hiện nay của ngành dệt may - xuất khẩu lớn nhất sang Mỹ và nhập khẩu nguyên, phụ kiện lớn nhất từ Trung Quốc?

- PGS. Rajkishore Nayak: Ngành dệt may đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, liên tục xếp hạng cao về nhu cầu sử dụng lao động và kim ngạch xuất khẩu (đạt 44 tỉ đô la Mỹ vào năm 2024). Mỹ là thị trường xuất khẩu số 1 của các sản phẩm dệt may Việt Nam, chiếm 38% tổng kim ngạch năm 2024. Do đó, những thay đổi trong chính sách thuế quan của Mỹ sẽ có tác động lớn đến hoạt động và kết quả kinh doanh của ngành.

Phần lớn các nguyên liệu thô như vải (vải dệt, vải đan và vải không dệt), da, phụ liệu (cúc, khóa kéo) và các phụ kiện cần thiết để sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam được nhập khẩu từ Trung Quốc. Các nhà cung cấp khác đến từ Hồng Kông (Trung Quốc), Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... Năm 2023, tổng giá trị vải nhập khẩu vào Việt Nam là 13,2 tỉ đô la Mỹ, tương đương hơn 33% tổng giá trị các mặt hàng dệt may xuất khẩu trong năm đó.

Thực tế cho thấy, việc nhập khẩu các nguyên liệu thô này là rất cần thiết để đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, giảm chi phí và giúp các sản phẩm dệt may của Việt Nam cạnh tranh hơn trên thị trường toàn cầu. Nhiều nguyên liệu do các nhà cung cấp trong nước sản xuất vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn toàn cầu về chất lượng và tính bền vững.

Lý do chính là vì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn sản xuất theo các quy trình truyền thống, tiêu hao nhiều năng lượng hơn và kém hiệu quả hơn so với nhà cung cấp nước ngoài. Do đó, nguyên liệu thô chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn toàn cầu về tính bền vững mà khách hàng từ Mỹ hay Liên minh châu Âu yêu cầu.

Mỹ là thị trường xuất khẩu số 1 của các sản phẩm dệt may Việt Nam. Ảnh: T.L

Các nguyên nhân khác như công nghệ hạn chế, vấn đề về cơ sở hạ tầng và thiếu số lượng nhà cung cấp trong nước đáp ứng chất lượng xuất khẩu…, cũng góp phần vào tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu thô cao. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Chính phủ Việt Nam đã có những sáng kiến để cải thiện sản xuất bền vững và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản xuất vải công nghệ cao.

Việc tăng thuế của Mỹ đối với Trung Quốc (và thương chiến Mỹ - Trung Quốc) sẽ không ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí nhập khẩu nguyên liệu thô của Việt Nam từ Trung Quốc. Tuy nhiên, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc chịu mức thuế cao hơn đồng nghĩa với việc người mua ở Mỹ có thể tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế ở Đông Nam Á và Nam Á. Việt Nam, Ấn Độ và Bangladesh có thể được coi là những lựa chọn thay thế tiềm năng với mức thuế quan tương đối thấp hơn.

Trong tương lai, Bộ Công Thương Việt Nam đang có kế hoạch giảm sự phụ thuộc quá mức của Việt Nam vào Trung Quốc về nguyên liệu thô. Đây là điều cần thiết để ngành dệt may Việt Nam thể hiện khả năng tự cung tự cấp nguyên liệu thô bởi các nhà sản xuất trong nước. Cách tiếp cận này sẽ thúc đẩy xu hướng near-shoring, giảm vận chuyển và phát thải carbon, đồng thời rút ngắn thời gian sản xuất và giao hàng.

KTSG: Trong bài viết mới đây, ông gợi ý ngành dệt may Việt Nam nên thay đổi theo hướng tự chủ về nguyên liệu thô, phát triển các quy trình sản xuất có đạo đức, đầu tư vào tự động hóa và trí tuệ nhân tạo, đa dạng hóa các loại sản phẩm và tìm kiếm các thị trường thay thế ở châu Á, châu Đại Dương và châu Âu. Làm thế nào để sự đa dạng, phát triển thị trường cho dệt may tương đồng được với sự tự chủ về nguyên liệu thô? Việc hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn và các chính sách khác nên được thực hiện như thế nào để doanh nghiệp dệt may ngày càng lớn mạnh?

- PGS. Rajkishore Nayak: Phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) phục vụ người tiêu dùng trong nước. Một số doanh nghiệp SME có liên kết với các chuỗi cung ứng toàn cầu hoặc bán hàng trực tuyến để tiếp cận người tiêu dùng quốc tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp SME đang phải đối mặt với một số thách thức như cạnh tranh ngày càng tăng do toàn cầu hóa, khả năng tiếp cận tài chính hạn chế, cũng như các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn về chất lượng và môi trường.

Các doanh nghiệp SME trong ngành dệt may Việt Nam cũng bị hạn chế về khả năng tiếp cận công nghệ, kiến thức và chuyên môn. Mặc dù họ có thể tiếp cận các nhà cung cấp nguyên liệu thô trong và ngoài nước, nhưng nhiều doanh nghiệp trong số họ chưa quen thuộc với các thông lệ bền vững và tiêu chuẩn bền vững toàn cầu. Điều này tạo ra thách thức cho các doanh nghiệp SME khi thâm nhập thị trường toàn cầu.

Để vượt qua những thách thức này, các doanh nghiệp SME có thể xây dựng bản sắc thương hiệu bằng cách tích hợp các vật liệu truyền thống và nghề thủ công vào các dòng sản phẩm; tập trung vào thiết kế, kiểu dáng và chất lượng sản phẩm; đồng thời sản xuất thời trang theo yêu cầu hoặc đặt hàng riêng để nâng cao sức hấp dẫn đối với khách hàng toàn cầu. Họ có thể củng cố các nền tảng trực tuyến để bán lẻ sản phẩm trên thị trường toàn cầu. Mặc dù việc này đòi hỏi khoản đầu tư nhất định, nhưng việc thâm nhập thị trường toàn cầu thành công cũng hứa hẹn đem đến lợi nhuận cao hơn cho các doanh nghiệp SME.

Chính phủ có thể hỗ trợ về mặt tài chính hoặc cải cách chính sách và thúc đẩy các hoạt động bền vững trong các doanh nghiệp SME Việt Nam. Hỗ trợ tài chính có thể dưới hình thức hỗ trợ tiền mặt trực tiếp, trợ cấp, mở rộng các nguồn vốn, ấn định lãi suất thấp hơn và kéo dài thời hạn thanh toán. Cải cách chính sách có thể bao gồm hỗ trợ pháp lý để doanh nghiệp bước ra thị trường toàn cầu, hỗ trợ tiếp cận công nghệ, thúc đẩy và bảo vệ các doanh nghiệp SME của Việt Nam. Cuối cùng, các hoạt động bền vững nên tập trung vào việc cải thiện kiến thức kỹ thuật, đào tạo và xây dựng bộ kỹ năng cần thiết cho các doanh nghiệp SME trên thị trường toàn cầu.

Thị trường nội địa cần gì?

KTSG: Xu hướng bảo hộ thương mại sẽ ngày càng gia tăng trên thế giới, đồng nghĩa, việc trở lại và chiếm lĩnh thị trường trong nước sẽ là một biện pháp giảm sốc vô cùng quan trọng cho doanh nghiệp. Bà nhìn nhận thế nào về thị trường nội địa cho sản phẩm dệt may Việt Nam? Bà có lời khuyên gì với doanh nghiệp Việt Nam để giúp họ tìm được con đường chinh phục người tiêu dùng trong nước?

- Bà Corinna Joyce: Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng và đã thể hiện được khả năng tăng trưởng bền bỉ trong những năm đầy thách thức gần đây. Với dân số hơn 100 triệu người, có rất nhiều cơ hội để tận dụng thị trường trong nước, với tầng lớp trung lưu đang ngày càng lớn mạnh, khả năng chi tiêu gia tăng và sự tương đồng văn hóa mạnh mẽ đối với các sản phẩm sản xuất trong nước.

Để củng cố tính tự chủ của ngành dệt may Việt Nam, ngành cần tập trung vào việc sản xuất vải và nguyên liệu thô của riêng mình. Ngành nông nghiệp có thể đóng vai trò quan trọng ở đây, thông qua việc mở rộng sản xuất bông và tre song song với đầu tư vào các nhà máy xử lý sợi và sản xuất vải. Điều này đòi hỏi định hướng chính sách và sự hỗ trợ nhất định từ phía Chính phủ, nhưng sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào vải nhập khẩu, vốn là xương sống của ngành dệt may Việt Nam, và đã và đang khiến ngành này dễ bị tổn thương.

Quy trình sản xuất và tìm nguồn cung ứng minh bạch cũng rất quan trọng để xây dựng lòng tin của người tiêu dùng. Chứng minh rằng vải, thiết kế và hàng may mặc được sản xuất hoàn toàn trong nước sẽ nâng cao vị thế của “Thương hiệu Việt Nam”.

Các doanh nghiệp thời trang và bán lẻ trong nước nên tập trung xây dựng các thương hiệu mạnh, dễ nhận biết, được người tiêu dùng trong nước ủng hộ và đón nhận. Việc nhấn mạnh vào chất lượng, tay nghề thủ công và giá cả phải chăng có thể giúp họ có được lợi thế cạnh tranh so với các sản phẩm quốc tế. Một số thương hiệu địa phương đã tận dụng sức mua ngày càng tăng của người tiêu dùng Việt Nam bằng cách tạo ra bản sắc độc đáo tách biệt với ảnh hưởng quốc tế.

Tuy nhiên, ngành bán lẻ hiện tại vẫn còn nhiều thách thức. Biến động về chi phí sinh hoạt đã làm suy yếu doanh số bán lẻ so với mức trước đại dịch Covid-19. Để thành công, các thương hiệu trong nước phải ưu tiên cải thiện thiết kế và chất lượng để chiếm được thị phần lớn hơn trong nước, khiến người tiêu dùng trung thành hơn với thương hiệu. Các doanh nghiệp bất động sản bán lẻ cũng có vai trò quan trọng bởi họ cần hợp tác với các thương hiệu để đảm bảo lợi nhuận hai bên.

Các cơ quan quản lý địa phương có thể đưa ra các biện pháp như quy định về phân vùng hoặc giới hạn mức trần tiền thuê để hỗ trợ sự tồn tại của các doanh nghiệp bán lẻ tại các trung tâm thành phố và trung tâm thương mại.

Dân số đa dạng của Việt Nam cũng đòi hỏi nhiều sản phẩm đa dạng. Để thu hút các phân khúc người tiêu dùng khác nhau, các doanh nghiệp nên đa dạng hóa các dòng sản phẩm của mình - có thể bao gồm từ các sản phẩm cơ bản với giá cả phải chăng đến các thiết kế cao cấp, cũng như các sản phẩm ngách như đồ tập luyện thể thao, vốn đang có nhu cầu ngày càng tăng.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới