(KTSG Online) – Doanh nghiệp trong mảng vận tải hàng hóa đang chứng kiến sự tăng giá hàng loạt của chi phí logistics theo diễn biến đàm phán thương mại giữa Mỹ và các nước trên thế giới. Nhiều doanh nghiệp Việt đã chuẩn bị cơ hội kinh doanh, sẵn sàng với kịch bản ứng phó sau 90 ngày tạm hoãn thuế quan.
- Doanh nghiệp logistics Việt Nam tìm cơ hội trong thách thức
- THILOGI đưa vào hoạt động công ty tại Lào tăng cường kết nối logistics khu vực
Doanh nghiệp thận trọng chờ chính sách
Ngay sau khi chính quyền Mỹ thông báo hoãn áp thuế đối ứng, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã nỗ lực tìm hướng đi mới. Tuy nhiên, do Mỹ là thị trường lớn cả về quy mô lẫn giá trị, việc chuyển hướng nhanh chóng là không dễ dàng.
Ông Trần Chí Dũng, Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistic Việt Nam (VLA), nhận định thời gian 90 ngày hoãn áp thuế của Mỹ là chưa đủ để doanh nghiệp trong nước kịp thích ứng với các thay đổi trong chuỗi cung ứng. “Việc điều chỉnh nguồn cung, quy trình sản xuất hay kênh phân phối không thể diễn ra trong vài tháng mà cần tới vài năm,” vị này cho biết.
Theo VLA, ngành logistics Việt Nam trị giá khoảng 42 tỉ đô la Mỹ, tăng trưởng 14-16% mỗi năm. Tuy nhiên, khi thuế làm giảm khối lượng hàng hóa, chi phí logistics leo thang: vận chuyển container tới bờ Tây Hoa Kỳ tăng từ 1.850 đô la Mỹ lên 2.950 đô la Mỹ; cước đến bờ Đông tăng từ hơn 2.000 đô la Mỹ lên gần 5.000 đô la Mỹ/container. Phí lưu kho tại cảng Los Angeles có thể lên tới 500 đô la Mỹ/ngày/container.
Theo đánh giá, các doanh nghiệp Việt đã có những bước chuẩn bị nhất định, chủ động xây dựng tâm thế và chiến lược dài hạn. Tuy nhiên, thách thức lớn hiện nay nằm ở việc sắp xếp nguồn lực và ra quyết định hiệu quả. Phần lớn doanh nghiệp vẫn vận hành dựa trên cảm tính và ý chí lãnh đạo, thay vì phân tích dữ liệu, một phần vì hệ thống dữ liệu hiện còn thiếu đầy đủ, thiếu chính xác và chậm cập nhật, đại diện Hiệp hội nêu rõ.

Tình trạng chuyển đổi số chậm cũng đang cản trở khả năng thích ứng của khối doanh nghiệp lớn và vừa. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, vốn chiếm tỉ lệ lớn, được dự báo sẽ phản ứng thụ động theo thị trường do hạn chế về năng lực phân tích và nguồn lực triển khai.
Ông Nguyễn Ngọc Thạch, CEO của Smart-Link Logistics, cho rằng trước khả năng Mỹ thay đổi mức áp thuế nhập khẩu với nhiều mặt hàng, trong ngắn hạn, điều này có thể gây ảnh hưởng nhẹ đến số lượng đơn hàng xuất khẩu mà doanh nghiệp đang xử lý, do cả thị trường Mỹ và các nhà xuất khẩu cần thời gian điều chỉnh giá và thích nghi. Tuy nhiên, về dài hạn, các mặt hàng thiết yếu và có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam sẽ ít bị ảnh hưởng, thậm chí có cơ hội tăng trưởng tốt hơn.
Theo doanh nghiệp, phản ứng từ phía khách hàng xuất nhập khẩu rất đa dạng. Một số doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ trước thời điểm chính sách mới có hiệu lực, trong khi số khác thận trọng theo dõi và chuyển hướng sang các thị trường tiềm năng như Trung Đông, Brazil, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc hay Indonesia. Riêng các doanh nghiệp nhập khẩu, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm, đang chờ hướng dẫn rõ hơn từ cơ quan quản lý để đảm bảo tuân thủ từ khâu nhập đến phân phối.
Chi phí logistics gần đây ghi nhận xu hướng tăng cả ở khâu vận tải biển lẫn vận chuyển nội địa, chủ yếu do giá nhiên liệu leo thang trong bối cảnh bất ổn địa chính trị. Đại diện doanh nghiệp cũng cho biết chi phí logistics tại Việt Nam hiện chiếm 16-18% GDP, cao hơn mức trung bình khu vực và nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải tối ưu hóa chi phí, tăng tính cạnh tranh, đặc biệt thông qua việc mở rộng "sân chơi" cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đại diện Advantage Logistics, ông Hoàng Lê Quyền, Phó Giám Đốc, cũng chỉ ra càng gần thời điểm kết thúc hoãn áp thuế đối ứng là ngày 1-8, lượng đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ có dấu hiệu chững lại rõ rệt.
Trước đàm phán về mức thuế mới tới đây, ông ghi nhận các đối tác Mỹ gần như dừng ký kết đơn hàng mới, chờ diễn biến thị trường, kết quả đàm phán thuế nhập khẩu với các quốc gia và tốc độ xoay vòng hàng tồn kho để đưa ra quyết định tiếp theo.
Cần lộ trình gia tăng lợi thế cạnh tranh
Nhìn chung, thay đổi trong nhu cầu thị trường khiến việc duy trì hiệu suất khai thác tàu, container và kho bãi gặp không ít khó khăn. Dù vậy, các doanh nghiệp logistics đã dần thích nghi với sự biến động khó lường bằng cách linh hoạt điều chỉnh lịch trình và đầu tư mạnh vào hạ tầng như trung tâm logistics, kho ngoại quan, công viên logistics... nhằm đáp ứng nhu cầu thương mại điện tử và trung chuyển hàng hóa xuyên biên giới.
Doanh nghiệp cho biết đã chủ động xây dựng kịch bản ứng phó, đồng thời tận dụng mạng lưới 17 FTA mà Việt Nam đã ký kết để mở rộng thị trường. Việt Nam đang dần khẳng định vai trò là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với sự hiện diện ngày càng lớn của các sản phẩm mang nhãn "Made in Vietnam" như thiết bị Apple, Lego, pin năng lượng mặt trời hay đồ gia dụng.
Dự báo tác động từ mức thuế mới đối với một số ngành hàng xuất khẩu sang Mỹ sẽ khiến đơn hàng giảm từ 10-15% trong 1-3 tháng đầu. Tuy nhiên, đây chỉ là sự điều chỉnh ngắn hạn, bởi các đối thủ cạnh tranh có thể mở ra cơ hội dài hạn cho hàng hóa Việt Nam, ông Thạch nhấn mạnh.
Tại doanh nghiệp của ông Hoàng Lê Quyền, từ cuối tháng 6, nhu cầu dịch vụ vận chuyển quốc tế của doanh nghiệp sụt giảm, kéo theo cước phí logistics đặc biệt là vận tải quốc tế giảm mạnh. Tại Mỹ, thời gian kiểm tra nguồn gốc xuất xứ với hàng hóa nhập khẩu ghi nhận kéo dài thêm 2-3 ngày. Trong khi đó, quá trình kiểm tra hàng xuất khẩu từ Việt Nam cũng chậm hơn do siết chặt kiểm soát xuất xứ, nhằm ngăn chặn tình trạng hàng đội lốt "Made in Vietnam". Nhiều tàu vận tải hoạt động dưới công suất do đơn hàng giảm, khiến việc duy trì hiệu suất khai thác tàu, container và kho bãi gặp nhiều khó khăn.

Hiện tại, doanh nghiệp cần liên tục cập nhật thông tin thị trường, chính sách thuế quan để kịp thời điều chỉnh kế hoạch. Đồng thời, việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và tối ưu hóa chi phí trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết trong bối cảnh tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường.
Ông Dũng từ phía Hiệp hội nói thêm TPHCM và Hải Phòng hiện xử lý hơn 90% lượng hàng xuất nhập khẩu của cả nước, với dòng hàng đi qua hàng chục cảng biển và cảng cạn (ICD). Điều đáng chú ý hơn là yêu cầu ngày càng khắt khe về tính minh bạch chuỗi cung ứng và mức thuế cao hơn với hàng “trung chuyển”.
Trong bối cảnh đó, các cảng có khả năng tích hợp tốt với chuỗi cung ứng, kiểm soát nguồn gốc xuất xứ và ứng dụng hiệu quả dịch vụ logistics sẽ có cơ hội tăng trưởng, trong khi những đơn vị thiếu năng lực quản trị sẽ gặp bất lợi.
Đại diện Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistic Việt Nam cho biết ngành đang kỳ vọng vào những thay đổi mang tính chiến lược để Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số và tầm nhìn phát triển đến năm 2045. Trong đó, một loạt đề xuất cụ thể đã được đưa ra nhằm nâng cao vai trò của doanh nghiệp logistics trong nền kinh tế.
Thứ nhất, doanh nghiệp logistics cần chuyển vai trò từ “hỗ trợ phía sau” sang “mở đường” cho hàng hóa ra thị trường, thông qua việc chủ động phối hợp với các bộ ngành, hiệp hội và doanh nghiệp sản xuất, không chỉ ở các thị trường truyền thống mà cả thị trường mới, đa dạng hơn.
Thứ hai, doanh nghiệp logistics phải đóng vai trò như “người quản lý chuỗi cung ứng”, hỗ trợ khách hàng tái cấu trúc chuỗi cung ứng một cách linh hoạt và hiệu quả hơn trong bối cảnh nhiều biến động toàn cầu.
Thứ ba, các doanh nghiệp lớn trong ngành cần đầu tư phát triển hạ tầng hiện đại, kết hợp với cơ chế, chính sách thông thoáng và công nghệ quản trị thông minh để hình thành môi trường sản xuất kinh doanh mới mang tính đột phá, như các khu thương mại tự do (FTZ) hay đặc khu kinh tế (SEZ).