(KTSG Online) – Thách thức cân đối dòng tiền để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng trên 10% trong năm 2026, sẽ là một áp lực không nhỏ đối với nhà điều hành chính sách.
- Quốc hội ‘chốt’ tăng trưởng GDP năm 2026 từ 10% trở lên
- Thúc đẩy tăng trưởng thực chất ở Việt Nam
- Các cải cách sẽ thúc đẩy tăng trưởng GDP cao vào năm 2026

Vốn "mồi" cho tăng trưởng 10%
Sáng ngày 13-11, Quốc hội thông qua Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội 2026. Trong đó mục tiêu tăng trưởng GDP là từ mức 10% trở lên, GDP bình quân đầu người 5.400-5.500 đô la Mỹ.
Mục tiêu này còn cao hơn nhiều so với mức thực hiện năm 2025, mà Chính phủ dự kiến là 8-8,5%. Số liệu cho thấy tăng trưởng GDP trong 3 quí đầu năm đạt mức 7,85%.
Để đạt con số mục tiêu vào cuối năm, các chuyên gia cũng đánh giá là quí 4 sẽ cần đạt mức tăng trưởng rất cao. Theo lãnh đạo Chính phủ, để tăng trưởng cả năm 2025 đạt mức 8% thì tăng trưởng quí 4 phải đạt trên 8,4%. Còn theo UOB, để đạt mức 8,3-8,5% vào cuối năm thì quí 4 phải đạt mức 9,7-10,5%.
Để tăng trưởng đạt mức cao, một câu hỏi được nhắc đến nhiều nhất là đòn bẩy vốn sẽ ở mức bao nhiêu là phù hợp.
Tính đến 30-10, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ước khoảng 15% so với cuối năm 2024. Con số được nhắc đến nhiều là trong khoảng 18-20% để đạt mục tiêu tăng trưởng trên 8%. Như vậy nếu tăng trưởng 10% trong năm sau, nhiều người nghĩ đến việc hệ thống ngân hàng sẽ phải tiếp tục làm việc nhiều hơn nữa.
Bên cạnh tín dụng, một kênh khác được kỳ vọng cải thiện góp sức nhiều hơn là thị trường vốn. Trong năm 2025, Bộ tài chính đã có nhiều cải cách, như rút ngắn thời gian huy động vốn từ các đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO), hay một động lực khác là nâng hạng thị trường chứng khoán từ cận biên lên mới nổi.
Tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ mới đây, lãnh đạo Bộ tài chính cho biết năm 2025 ước tính huy động khoảng 1 triệu tỉ đồng từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với tiềm năng.
Bộ tài chính vẫn đang tiếp tục sửa luật, cụ thể hóa hơn các quy định liên quan đến phát hành trái phiếu, nhà đầu tư đầu tư vào trái phiếu và tăng cường kiểm tra, giám sát thị trường và đảm bảo chất lượng trái phiếu phát hành.
Cụ thể, quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng dự kiến là quỹ đóng, đầu tư tối thiểu 65% tổng giá trị tài sản ròng (NAV) vào các loại trái phiếu được phát hành để phát triển hạ tầng, công cụ nợ của Chính phủ, tiền gửi và chứng chỉ tiền gửi.
Còn Quỹ đầu tư công cụ thị trường tiền tệ dự kiến là quỹ mở, đầu tư tối thiểu 80% NAV vào tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi, công cụ nợ của Chính phủ và các tài sản có thu nhập cố định khác có thời gian đáo hạn còn lại từ 12 tháng trở xuống (trừ công cụ nợ của Chính phủ).
Một câu chuyện đáng chú ý là dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán mới đây đã đề xuất xây dựng cụ thể hai quỹ đầu tư cho đại chúng, gồm Quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng và Quỹ đầu tư công cụ thị trường tiền tệ.
Một “trục đầu tư” quan trọng khác là dòng tiền từ ngân sách với mức thu đã tăng lên đáng kể trong năm 2025. Mặt khác, Chính phủ cũng lên kế hoạch đầu tư với nhiều dự án kế hoạch đầu tư hạ tầng đang được thiết lập trong năm 2026, từ đường bộ, cảng biển, hàng không, đường sắt, đường thủy nội địa.
Các chuyên gia ước tính tỷ trọng đầu tư hạ tầng có thể tăng từ mức 6% trên GDP trong giai đoạn 2021-2025, lên mức 10% trong giai đoạn 2026-2030. Đây cũng là mức tương đồng với nhiều quốc gia phát triển đã có giai đoạn đẩy mạnh xây dựng hạ tầng trước đó. Tính đến hết tháng 10, giải ngân vốn đầu tư công đạt 54,5% kế hoạch, cao hơn so với cùng kỳ.
Cân đối dòng tiền vĩ mô: không dễ
Năm 2026 là năm đầu tiên trong chu kỳ phát triển kinh tế mới, triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Nghị quyết cũng được nêu rõ mục tiêu tổng quát là: Ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn.
Lạm phát mục tiêu tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân vẫn ở mức khoảng 4,5%, một con số ở mức bình thường so với các bản kế hoạch trước đây. Nhưng để tăng trưởng GDP lên tầm cao mới, nhiều chuyên gia lo ngại con số tăng trưởng tín dụng tiếp tục giữ ở mức cao sẽ dẫn đến tình huống khó “cân đối” các biến số vĩ mô.
Trên thực tế, báo cáo Quốc hội cũng nhắc đến những lo ngại về vĩ mô như sức ép lạm phát, tỷ giá, lãi suất còn lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh vực còn khó khăn, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính vì vậy, điều quan trọng hiện nay vẫn là câu chuyện “giữ vững ổn định vĩ mô”, nhưng cân đối vĩ mô chưa bao giờ là câu chuyện điều hành theo kiểu “một chiều” dễ dàng.
Bản thân các ngân hàng hiện nay đang phải “gánh” lượng vốn lớn cho nền kinh tế, có không ít trong số đó là vốn vay trung và dài hạn. Sau báo cáo tài chính quí 3, một số tổ chức đưa ra cảnh báo về tình trạng tăng trưởng tín dụng chậm lại, lo ngại áp lực cân đối giữa lãi suất đầu vào và đầu ra đang ngày càng căng thẳng hơn.
Trong khi đó, bối cảnh chung vĩ mô vẫn là áp lực của tỷ giá, đến từ những biến số địa chính trị thế giới, dòng chảy thương mại quốc tế, bao gồm cả giá vàng và diễn biến đồng đô la. Sự phức tạp trong việc cân đối dòng tiền vĩ mô đòi hỏi Việt Nam linh hoạt hơn, nhưng đồng thời cần phải kiên định với lạm phát.
