(KTSG) - Ngày 8-10 vừa qua, Dự thảo Luật AI đã được công khai để lấy ý kiến đóng góp. Dự luật này là nỗ lực của Chính phủ trong việc tạo lập hành lang pháp lý vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo, vừa kiểm soát rủi ro phát sinh từ công nghệ AI.
Tuy nhiên, còn có một số vấn đề chính cần được xem xét và hoàn thiện trước khi dự luật được thông qua, dự kiến vào cuối năm nay tại kỳ họp thứ X của Quốc hội.
- Tổng Bí thư Tô Lâm thăm Trung tâm nghiên cứu, đào tạo thiết kế vi mạch và trí tuệ nhân tạo Đà Nẵng
- Đề xuất miễn tiền thuê đất cho dự án chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo

Sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) đang đặt ra những thách thức về đạo đức, an toàn, bảo mật và trách nhiệm pháp lý. Sự chủ động, nhanh nhạy của Chính phủ xây dựng khung pháp lý toàn diện cho AI được thể hiện qua việc ban hành một loạt văn bản, như Luật Công nghiệp Công nghệ số, Nghị quyết 222 về trung tâm tài chính quốc tế, Nghị quyết 05 về thí điểm sàn giao dịch tài sản mã hóa, các cơ quan làm luật đang tiến thêm một bước nữa trên con đường tạo dựng hành lang pháp lý cho các công nghệ mới, mà cụ thể là AI.
Ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo (Luật AI) là một nhu cầu thiết thực nhằm mục tiêu: Tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các doanh nghiệp công nghệ; Bảo vệ quyền và lợi ích của người dùng; Đảm bảo phát triển bền vững trong lĩnh vực công nghệ; Thể hiện sự bắt nhịp với xu hướng toàn cầu trong điều chỉnh AI.
Dự thảo Luật AI: các khuyến nghị
Dự thảo Luật AI của Việt Nam - vừa đưa ra lấy ý kiến đóng góp từ ngày 8-10-2025 - có hướng tiếp cận tương đồng với các quy định điều chỉnh về AI của các quốc gia hàng đầu trên thế giới, đặc biệt là: (i) Đạo luật AI của Liên minh châu Âu (EU AI Act): Tiếp cận dựa trên mức độ rủi ro, phân loại hệ thống AI thành các nhóm rủi ro khác nhau để phân định nghĩa vụ và trách nhiệm tương ứng; (ii) Luật Cơ bản về AI của Hàn Quốc: Tiếp cận căn cứ trên rủi ro, tập trung vào xây dựng hạ tầng AI quốc gia và đảm bảo tính minh bạch, trách nhiệm.
Cấu trúc Dự thảo Luật được tổ chức thành các phần lớn, gồm những nội dung quan trọng, trong đó có các trụ cột chính: 1. Phân loại hệ thống AI theo mức độ rủi ro. 2. Phát triển hạ tầng AI quốc gia. 3. Đạo đức, độ tin cậy và trách nhiệm trong hoạt động AI. 4. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp. 5. Trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại.
Dự Luật cần bổ sung cho trọng tài thương mại các quyền hạn tương đồng như tòa án trong khuôn khổ pháp luật tố tụng, phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như tạo ra sự thuận lợi để thu hút thêm đầu tư trong lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là AI cho thị trường Việt Nam.
Dự thảo được xây dựng theo cách tiếp cận toàn diện, bao quát các khía cạnh quan trọng của hoạt động AI, phù hợp với xu hướng quốc tế khi cũng có phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro (risk-based approach) phản ánh thực tiễn tốt nhất của các nước phát triển và lấy con người làm trung tâm, chú trọng đến tính minh bạch, đạo đức và trách nhiệm trong các hoạt động liên quan đến AI và hệ thống AI. Dự thảo không chỉ tập trung vào khía cạnh kỹ thuật mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức và trách nhiệm xã hội đối với các chủ thể khi tham gia phát triển, thiết kế, triển khai, sử dụng và các hoạt động khác có tương tác trực tiếp đến AI. Bên cạnh đó là việc khuyến khích ứng dụng AI chuyển đổi số tương đối toàn diện, từ khu vực công đến các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Điều này cho thấy, điều chỉnh về AI từ tiếp cận của Việt Nam không phải chỉ là kiểm soát đơn thuần mà còn là tạo điều kiện, ứng dụng công nghệ vào đời sống kinh tế - xã hội.
Bên cạnh các nội dung đã đạt được, Dự thảo Luật có một số vấn đề cần được hoàn thiện và bổ sung để phù hợp khi có hiệu lực và được triển khai trong thực tiễn (được nêu chi tiết trong phụ lục đính kèm). Tuy nhiên, người viết xin được đưa ra các điểm lớn cần được lưu ý như sau:
Về định nghĩa và các thuật ngữ
Một số thuật ngữ được đưa vào phần định nghĩa nhưng không được sử dụng như khái niệm “năng lực tự chủ về AI quốc gia”; hay việc định nghĩa “trí tuệ nhân tạo” thiết nghĩ là không cần thiết khi thuật ngữ này đã trở nên phổ thông, không khó hiểu; hơn nữa nếu định nghĩa AI là “khoa học máy tính” thì chưa tạo ra được sự thống nhất theo cách hiểu được chấp nhận chung của cộng đồng quốc tế; hoặc việc dịch thuật ngữ “AI Agent” thành “tác tử AI” chưa thể hiện đúng bản chất của loại mô hình, hệ thống AI này.
Trong Dự thảo Luật, cùng một khái niệm được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau, gây khó khăn trong việc áp dụng và giải thích pháp luật, điển hình là “Hệ thống AI rủi ro cao”, “Hệ thống AI thuộc nhóm rủi ro cao”, “Sử dụng AI thuộc diện rủi ro cao”… Sự không nhất quán này có thể dẫn đến những tranh cãi về cách hiểu chính xác, phạm vi áp dụng, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể khác nhau.
Vì vậy, người viết đề xuất Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét lại Dự thảo Luật để điều chỉnh các thuật ngữ cần định nghĩa, sửa đổi, bổ sung các khái niệm và sử dụng thống nhất hệ thống thuật ngữ trong toàn bộ Dự thảo Luật.
Công cụ quản lý đối với hệ thống AI có rủi ro cao
Đối với hệ thống AI được phân loại là “có rủi ro cao” (phân loại cũng là một bước phải thực hiện) thì một loạt thủ tục cần phải được thực hiện như đánh giá sự phù hợp (để được gắn mã hợp quy), đánh giá tác động AI, đăng ký hệ thống trên cơ sở dữ liệu quốc gia về AI cùng với rất nhiều các nghĩa vụ khác phải được tuân thủ trước, trong quá trình sử dụng, vận hành hệ thống AI có rủi ro cao.
Tuy nhiên, các thủ tục và công cụ quản lý này chưa được định hình rõ về thời điểm thực hiện (thủ tục nào trước, sau hay thực hiện song song) nên có lẽ đang tạo ra sự bối rối cho các đơn vị đã, đang phát triển và có ý định cung ứng dịch vụ, sản phẩm AI hoặc có tích hợp hệ thống AI hay mô hình AI đa dụng. Sự thiếu rõ ràng này có thể gây ra gánh nặng tuân thủ không cần thiết cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa và startup, hay rủi ro vi phạm không chủ ý do không nắm rõ đầy đủ các nghĩa vụ, thời điểm tuân thủ, tăng thêm chi phí do phải thuê tư vấn để giải thích các quy định và có thể tạo sự cản trở đổi mới, sáng tạo khi các bên phải dành quá nhiều nguồn lực cho việc tuân thủ thay vì phát triển.
Trọng tài được xem là diễn đàn ưu tiên cho giải quyết tranh chấp do tính chuyên môn cao của trọng tài viên, tính linh hoạt trong quy trình, khả năng bảo mật thông tin kỹ thuật, cũng như tính khả thi cao của phán quyết trọng tài quốc tế (theo Công ước New York 1958). Việc hạn chế quyền hạn của trọng tài có thể làm giảm tính hấp dẫn của Việt Nam như một địa điểm giải quyết tranh chấp AI khu vực.
Vì vậy, để luật có thể được triển khai thực thi hiệu quả ngay khi được ban hành, có hiệu lực, thiết nghĩ ban soạn thảo (bên cạnh dự thảo các văn bản dưới luật để quy định chi tiết, hướng dẫn luật ở một số nội dung như điều kiện hoạt động của đơn vị đánh giá hợp quy, cách lập, quản lý và vận hành quỹ quốc gia về AI…) thì cũng nên bổ sung, làm rõ các thủ tục liên quan, cần thiết và thời điểm hoàn thành nghĩa vụ theo thứ tự về thời gian để luật mang tính khả thi cao mà không cần tiếp tục chờ hướng dẫn chi tiết.
Cơ chế giải quyết tranh chấp
Dự thảo Luật đã thừa nhận trọng tài thương mại là một cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực AI bên cạnh hòa giải và tòa án. Đây là bước tiến đáng ghi nhận, phù hợp với tính chất đặc thù của lĩnh vực công nghệ vốn phức tạp về bản chất và thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi chuyên môn cao và tính linh hoạt trong giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, Dự thảo Luật hiện tại quy định một số quyền hạn và biện pháp chỉ dành riêng cho tòa án, trong khi trọng tài thương mại bị hạn chế, như không có quyền yêu cầu buộc công khai bằng chứng hoặc yêu cầu cung cấp dữ liệu, thông tin kỹ thuật từ bị đơn (bên triển khai, bên cung cấp); hay buộc công khai bằng chứng.
Trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và thương mại quốc tế, trọng tài được xem là diễn đàn ưu tiên cho giải quyết tranh chấp do tính chuyên môn cao của trọng tài viên, tính linh hoạt trong quy trình, khả năng bảo mật thông tin kỹ thuật, cũng như tính khả thi cao của phán quyết trọng tài quốc tế (theo Công ước New York 1958). Việc hạn chế quyền hạn của trọng tài có thể làm giảm tính hấp dẫn của Việt Nam như một địa điểm giải quyết tranh chấp AI khu vực.
Vì vậy, dự Luật cần bổ sung cho trọng tài thương mại các quyền hạn tương đồng như tòa án trong khuôn khổ pháp luật tố tụng, phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như tạo ra sự thuận lợi để thu hút thêm đầu tư trong lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là AI cho thị trường Việt Nam.
Thời gian chuẩn bị và hiệu lực
Theo lộ trình hiện tại, Dự thảo Luật AI dự kiến được ban hành và có hiệu lực trong thời gian tương đối ngắn, dự kiến vào cuối năm nay, trong kỳ họp thứ X của Quốc hội. Tuy nhiên, xét đến tính phức tạp của lĩnh vực AI và tác động sâu rộng của Luật đến nhiều đối tượng khác nhau, thời gian chuẩn bị hiện tại có thể chưa đủ. Khi tham khảo quá trình xây dựng luật thì EU cần từ 6-36 tháng để triển khai thi hành, một số điều khoản cụ thể trong Đạo luật AI vẫn chưa có hiệu lực hay quốc gia cạnh bên Việt Nam là Hàn Quốc cũng dành tới 12 tháng chuẩn bị trước khi có thể Luật Cơ bản về AI có hiệu lực (không tính thời gian dự thảo và ban hành). Việc nhanh chóng để có khung pháp lý điều chỉnh về AI thể hiện tính chủ động của Việt Nam nhưng việc ban hành một văn bản luật cơ bản đủ tốt cũng là một yêu cầu quan trọng, tránh tình trạng văn bản ban hành chưa thực sự phù hợp và phải sửa đổi, bổ sung trong thời gian ngắn.
Hơn nữa, chủ thể chịu tác động của Luật quan trọng nhất sẽ là các lập trình viên, giới khởi nghiệp công nghệ, các nhà khoa học, các chuyên gia máy tính trong lĩnh vực liên quan và thực tế thì nhóm chủ thể này lại không quá quan tâm đến quy định pháp luật (văn bản dài dòng, khó hiểu). Vì vậy, thiết nghĩ Luật AI nếu được ban hành cũng cần có thời gian giới thiệu rộng rãi, hướng dẫn và tiếp cận được với nhóm chủ thể chịu tác động chủ yếu để văn bản luật thực sự mang lại hiệu quả.
Vì vậy, người viết kiến nghị Dự thảo Luật cần thêm thời gian hoàn hiện và có thể ban hành chậm hơn ít nhất là sáu tháng hoặc thời điểm có hiệu lực cần ít nhất là sáu tháng cho đến 1-7-2026 (hiện theo Dự thảo Luật là 1-1-2026) để các chủ thể liên quan có sự chuẩn bị phù hợp cũng như chính cơ quan nhà nước có thẩm quyền có đủ thời gian để chuẩn bị nền tảng, cơ sở cho hoạt động quản lý, điều chỉnh của mình được suôn sẻ, thông suốt.
(*) Phó chủ tịch Trung tâm Trọng tài Thương nhân Việt Nam (VTA)
