Thứ Năm, 23/10/2025
32.8 C
Ho Chi Minh City

Gạo Việt tìm lối đi khác biệt khi cục diện thị trường thay đổi?

Trung Chánh

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

A.I

(KTSG Online) – Cục diện thị trường ngành gạo đang khá “ảm đạm” khi nguồn cung từ các nước xuất khẩu dồi dào, trong khi phía nhập khẩu có xu hướng “tự cung tự cấp” nhiều hơn. Điều này đang tạo ra những tác động tiêu cực khi chỉ số giá gạo toàn cầu giảm mạnh, trong đó có Việt Nam. Vậy, Việt Nam cần xử lý thế nào trước bối cảnh mới hiện nay?

Lúa gạo toàn cầu, trong đó, có Việt Nam chịu áp lực giảm giá rất mạnh khi nguồn cung dồi dào trong khi phía nhập khẩu gia tăng "tự cung tự cấp". Ảnh: Trung Chánh

Đã giảm mạnh và còn giảm tiếp?

Thương mại gạo toàn cầu, trong đó có Việt Nam, thời gian gần đây chứng kiến sự sụt giảm rất mạnh về giá bán của loại lương thực chủ lực này.

Biểu đồ thống kê chỉ số giá gạo trắng (Oryza White Rice Index), cho thấy chỉ số giá bình quân gia quyền gạo trắng xuất khẩu toàn cầu đã liên tục sụt giảm trong hơn một năm qua, từ mức khoảng 700 đô la Mỹ/tấn được ghi nhận vào cuối năm 2023, xuống còn khoảng trên 400 đô la Mỹ/tấn ở thời điểm hiện tại, tức giá gạo trắng toàn cầu đã giảm khoảng 300 đô la Mỹ/tấn.

Nếu so với cùng kỳ năm ngoái, giá gạo trắng bình quân gia quyền toàn cầu hiện đã giảm khoảng 170 đô la Mỹ/tấn. Trong đó, ở khu vực châu Á, giá gạo đã rơi xuống mức thấp nhất trong một thập kỷ qua.

Riêng với Việt Nam, năm 2024 giá xuất khẩu gạo bình quân đạt khoảng 630 đô la Mỹ/tấn, tăng 23% so với năm 2023. Tuy nhiên, tính đến ngày 15-10-2025, bình quân giá xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ còn 510 đô la Mỹ/tấn, giảm khoảng 112 đô la Mỹ/tấn so với cùng kỳ năm ngoái và giảm đến 120 đô la Mỹ/tấn so với bình quân cả năm 2024.

Xu hướng sụt giảm của giá gạo trắng toàn cầu chịu tác động rất lớn bởi yếu tố cung- cầu, cụ thể là thời điểm tháng 7-2023 khi Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu một số loại gạo, đã lập tức kéo giá lương thực chủ lực này tăng cao sau đó.

Tuy nhiên, đến cuối tháng 9 năm ngoái, khi lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ được dỡ bỏ, nguồn cung được nới lỏng, khiến giá gạo toàn cầu giảm mạnh và kéo dài đến thời điểm hiện tại.

Dĩ nhiên, Việt Nam cũng không tránh khỏi xu hướng này, nhất là khi Philippines- quốc gia hiện chiếm khoảng 40% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam- ban hành lệnh cấm nhập khẩu từ ngày 1-9 và kéo dài đến hết tháng 10-2025, thậm chí dự kiến mở rộng các biện pháp nhằm bảo vệ nông dân sản xuất lúa trong nước (các kịch bản đang được thảo luận là kéo dài lệnh cấm, tăng thuế nhập khẩu lên 35%) khiến giá lúa gạo cả trong nước lẫn xuất khẩu của Việt Nam khá “ảm đạm”.

Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA)- đơn vị đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam- dẫn các báo cáo quốc tế, dự báo giá gạo thế giới còn giảm tiếp trong niên vụ 2025-2026 (bắt đầu từ tháng 10-2025 và kết thúc vào tháng 9-2026).

Kịch bản dự báo giảm được củng cố khi Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO) dự báo sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2025-2026 đạt mức kỷ lục, khoảng 556,4 triệu tấn, trong khi các quốc gia nhập khẩu chính đang đẩy mạnh “tự cung tự cấp”.

Chẳng hạn, Philippines đang có kế hoạch xây dựng 147 trung tâm chế biến lúa gạo được trang bị hệ thống máy sấy, xay xát và đánh bóng nhằm gia tăng sản lượng và cải thiện hệ thống sau thu hoạch. Đây là động thái minh chứng rõ ràng cho tham vọng “tự cung tự cấp” lúa gạo, tránh lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ bên ngoài.

Còn Cơ quan Lương thực Quốc gia Indonesia (Bapanas) khẳng định lượng gạo tồn kho 3,89 triệu tấn của quốc gia này vẫn đảm bảo an toàn về chất lượng, trong khi theo Bộ Nông nghiệp Indonesia, sản lượng gạo năm 2025 tăng khoảng 12,1%, dự kiến đạt 34,3 triệu tấn.

Lúa chất lượng cao, lúa thơm được định hướng đẩy mạnh sản xuất nhằm tạo lợi thế khác biệt. Ảnh: Trung Chánh

Định hướng phân khúc đúng, chờ hiện thực hóa

Trước bối cảnh thị trường được dự báo có nhiều khó khăn trong thời gian tới, đặc biệt là vụ đông xuân 2025-2026, việc lựa chọn hướng đi phù hợp là cách giúp ngành lúa gạo Việt Nam tạo lợi thế.

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) trong định hướng sản xuất vụ đông xuân 2025-2026 đặt mục tiêu tổng diện tích gieo sạ ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)- nơi chiếm khoảng 95% tổng lượng gạo xuất khẩu hàng năm của cả nước- đạt trên 1,5 triệu héc-ta. Trong đó, 60% diện tích sản xuất các giống lúa chất lượng cao như: OM 18, OM 5451, Đài Thơm 8, Jasmine 85; 30% diện tích tập trung vào nhóm giống thơm đặc sản và nếp như: ST24, ST25, RVT, Nàng Hoa 9, Nếp An Giang, DS1; 10% diện tích còn lại gieo sạ các giống lúa ở vùng đặc thù, giống dùng cho chế biến (còn gọi là giống chất lượng thấp) như: OM 380, Cửu Long 555, OM 2517…

Cơ cấu tỷ lệ giống lúa được định hướng gieo sạ như trên được xem là một lựa chọn đúng, bởi giống chất lượng cao, lúa thơm và giống đặc sản đang là phân khúc có lợi thế khác biệt, tạo sức cạnh tranh tốt nhất cho Việt Nam ở nhiều thị trường so với các quốc gia xuất khẩu đối thủ như Ấn Độ và Thái Lan.

Thậm chí, ngay ở thời điểm Philippines cấm nhập khẩu gạo, vẫn có những lô hàng gạo thơm và chất lượng cao của Việt Nam được bán sang quốc gia này. Đây là phân khúc gạo không cạnh tranh trực tiếp với gạo nội địa Philippines, trong khi người tiêu dùng nước này lại khá chuộng.

Tuy nhiên, định hướng phân khúc sản xuất như nêu trên vẫn chờ được cụ thể hóa trên thực tế đồng ruộng của người nông dân trong vụ đông xuân tới.

Ngoài việc xây dựng phân khúc có tính cạnh tranh cao, việc chủ động khai thác thị trường mới cũng như tháo gỡ những khó khăn nội tại của ngành từ các cơ quan quản lý là điều cần thiết.

Trao đổi với KTSG Online, bà Dương Thanh Thảo, Giám đốc Công ty cổ phần Gạo Ông Thọ, cho biết về phía doanh nghiệp, đơn vị này đã chủ động tận dụng cơ hội tham gia các chương trình xúc tiến thương mại ở nước ngoài và hội chợ triển lãm để tìm khách hàng mới phù hợp với phân khúc gạo mà doanh nghiệp đang tập trung. “Đồng thời, chúng tôi cũng hỗ trợ nhà phân phối ở các quốc gia đã xuất khẩu để đồng hành làm chương trình thúc đẩy bán hàng, giúp đẩy sản lượng,” bà nói.

Về phía cơ quan quản lý, theo bà Thảo, trước hết cần kiểm soát lượng gạo nhập khẩu; thứ hai, cần tăng cường các đoàn xúc tiến thương mại thực chất và hiệu quả. “Có thể tập hợp hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu gạo đi kết nối với các nhà bán lẻ lớn ở nhiều thị trường nhập khẩu gạo,” bà gợi ý, đồng thời cho rằng các cơ quan tham tán thương mại ở nước ngoài có thể cung cấp thông tin, kết nối, để doanh nghiệp chủ động tìm kiếm khách hàng phù hợp.

Ngoài ra, để hỗ trợ ngành hàng lúa gạo trong bối cảnh khó khăn, vị giám đốc doanh nghiệp Gạo Ông Thọ, kiến nghị xem xét lại vấn đề thuế giá trị gia tăng (VAT), bởi khi có thuế, doanh nghiệp buộc phải cộng vào giá bán (doanh nghiệp luôn phải tính rủi ro không được hoàn thuế), dẫn đến khó cạnh tranh khi giá thế giới giảm.

Liên quan đến vấn đề ủy thác xuất khẩu gạo, bà Thảo cho rằng, nếu doanh nghiệp được ủy thác xuất khẩu, có thể tận dụng được lực lượng “sales” quốc tế có sẵn từ các doanh nghiệp. Tuy nhiên, có không ít trường hợp “đạp giá” bằng mọi cách để bán được hàng, khiến chất lượng không đảm bảo, làm mất uy tín ngành hàng. “Do đó, nên xem xét kỹ. Nếu lượng xuất khẩu ủy thác trước đây ít thì có thể không cần mở rộng, nhưng nếu nhiều thì nên cân nhắc tháo gỡ để doanh nghiệp tiếp tục bán,” bà nói.

Rõ ràng, ngành gạo Việt Nam ở thời điểm hiện nay cũng như trong ngắn hạn, đặc biệt vụ đông xuân 2025-2026 đang đối mặt với rất nhiều khó khăn. Do đó, việc nhanh chóng đưa ra giải pháp ứng phó bằng nhiều cách, nhất là chủ động mở rộng thêm thị trường, là điều cần triển khai ngay...

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới