Hành trình tương lai của tiền số quốc gia
TS. Lê Hồng Giang
(TBKTSG) - LTS: Trong khi quyết định không cấp phép cho Ngân hàng TNB của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vào đầu năm 2019 vô hình trung đã đóng lại cơ hội ra đời một đồng tiền số quốc gia cho Mỹ, thì giữa năm 2019. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) tuyên bố sẽ phát hành đồng tiền số quốc gia của mình, rồi chỉ vài tháng sau đã bắt đầu triển khai thử nghiệm. Điều gì khiến Mỹ dè dặt còn Trung Quốc mạnh bạo đến vậy? Đâu là diện mạo và tương lai của “đồng tiền” mới này?
![]() |
Trung Quốc đang thất bại khi đưa công nghệ di động 5G mà họ phát triển ra thế giới, liệu họ có thành công hơn với các tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến tiền số quốc gia? |
Mỹ từng khép lại cơ hội ra đời một đồng tiền số quốc gia
Đầu năm 2019, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) có một quyết định được giới kinh tế vĩ mô đặc biệt quan tâm nhưng dư luận lại không mấy chú ý. Khởi nguồn từ lá đơn xin thành lập một ngân hàng mới của James McAndrews, người từng là giám đốc nghiên cứu thống kê của các chi nhánh Fed ở Philadelphia và New York.
Ngân hàng mà McAndrews định thành lập có tên là The Narrow Bank (TNB), sẽ là một ngân hàng rất đặc biệt bởi nó không có ý định cho bất kỳ doanh nghiệp hay người dân nào vay số tiền huy động được mà gửi hết vào tài khoản tại Fed dành riêng cho các ngân hàng thương mại.
McAndrews lập luận rằng dù Fed trả lãi rất thấp cho số dư ở các tài khoản này, nhiều người gửi tiền không hẳn vì lãi suất mà muốn có một chỗ cất giữ tài sản an toàn, tất nhiên không đâu an toàn bằng tài khoản tại Fed. Nhưng Fed đã từ chối đơn xin mở ngân hàng TNB, sau đó còn ra một văn bản ngăn cản bất kỳ nỗ lực nào thực hiện một mô hình ngân hàng tương tự trong tương lai.
Quyết định không cấp phép cho TNB vô hình trung đã đóng lại cơ hội ra đời một đồng tiền số quốc gia (Central Bank Digital Currency - CBDC) mới cho Mỹ mà mọi người dân đều có quyền tiếp cận. Để hiểu điều này cần quay lại nguyên lý căn bản trong kinh tế học tiền tệ: tiền giấy quốc gia (national banknote) là tài sản nợ (liability) duy nhất trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương mà một cá nhân có thể nắm giữ trực tiếp, các tài sản nợ còn lại do các định chế tài chính và chính quyền trung ương nắm giữ).
Một đồng tiền CBDC với mục đích thay thế tiền giấy phải có tính chất tương tự, nghĩa là người dân sở hữu CBDC sẽ trực tiếp nắm giữ một phần nợ của ngân hàng trung ương.
Giới kinh tế cho rằng nguyên tắc “dịch vụ ngân hàng hạn hẹp” (narrow banking - từ đó mới đặt tên ngân hàng này như thế) mà TNB định áp dụng (tức tính chất giúp cá nhân nắm giữ tài sản nợ ở ngân hàng trung ương), gián tiếp giúp bất kỳ ai cũng có thể có một tài khoản tại ngân hàng trung ương. Vì vậy, nếu TNB được thành lập, vô hình trung tạo ra một đồng tiền số quốc gia cho Mỹ. Nhưng Fed không/chưa sẵn sàng có một đồng tiền như vậy.
Dung mạo đồng tiền số quốc gia của Trung Quốc
Ngược lại với quan điểm dè dặt đó của Fed, giữa năm 2019 PBoC tuyên bố sẽ phát hành CBDC của mình, rồi chỉ vài tháng sau đã bắt đầu triển khai thử nghiệm. Đồng tiền số quốc gia của Trung Quốc có tên chính thức là Digital Currency/Payment System (DC/EP) đã được tích hợp thử nghiệm vào hệ thống thanh toán của Alipay, WeChat, Union Pay, Didi Chuxing ở một số thành phố lớn trong nửa đầu 2020.
Cũng giống như nguyên lý của TNB, DC/EP cho phép người dân trực tiếp nắm giữ tài sản nợ của ngân hàng trung ương thay vì phải giữ tiền giấy. Nhưng đi xa hơn, PBoC thiết kế đồng tiền này với nhiều đặc tính giống tiền giấy hơn cơ chế của TNB ở Mỹ. Trong khi TNB chỉ là một biến thể nhỏ so với hệ thống tiền tệ hiện tại, DC/EP áp dụng nhiều ý tưởng và công nghệ từ các đồng tiền mật mã do các tổ chức tư nhân phát hành trong những năm gần đây.
Theo phân loại của Bank of International Settlement (BIS), CBDC có thể chia thành hai nhóm: dựa trên tài khoản (account-based) hay dựa trên token (token-based hay tokenized system).
Những đồng CBDC thuộc nhóm có tài khoản (như ý tưởng của TNB) phải được lưu giữ trong các tài khoản cá nhân, trực tiếp hoặc gián tiếp trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương. Trên thực tế, hệ thống này không có khái niệm “đồng tiền” mà chỉ là “số dư tài khoản”, “đồng tiền” ở đây đơn thuần có vai trò đơn vị đo đếm.
Điểm khác biệt giữa những tài khoản chứa CBDC và các tài khoản ngân hàng bình thường hiện nay về mặt kinh tế và pháp luật là chủ tài khoản nắm giữ tài sản nợ của ngân hàng trung ương thay vì của ngân hàng thương mại. Khác biệt này tưởng chừng không đáng kể nhưng có ý nghĩa quan trọng với chính sách tiền tệ (sẽ được phân tích thêm bên dưới).
Với nhóm dùng token (như DC/EP), CBDC thực sự là những “đồng tiền” tương tự như đồng tiền giấy. Hệ thống này có thể cho phép từng “đồng tiền” có giá trị cụ thể, có số series, có thể tồn tại trong các ví (điện tử) bên ngoài hệ thống tài chính và có thể giúp các bên giao dịch ẩn danh với nhau nếu muốn, điều mà các CBDC dạng tài khoản không có được.
Tuy nhiên DC/EP không dựa hẳn vào công nghệ blockchain như các đồng tiền mật mã khác như bitcoin hay libra. Hệ thống tiền tệ này được chia thành hai lớp: (i) lớp phát hành và quản lý tài khoản, và (ii) lớp dịch vụ thanh toán đầu cuối. Ở lớp phát hành, PBoC sẽ tạo ra DC/EP rồi hoán đổi cho các ngân hàng thương mại (rút RMB - đồng nhân dân tệ truyền thống về) với tỷ lệ 1:1. Các ngân hàng thương mại được coi là đại lý cho PBoC cung cấp các dịch vụ thanh toán, chuyển khoản, rút/nộp DC/EP, hoán đổi sang nhân dân tệ từ người tiêu dùng cuối cùng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại và các dịch vụ tài chính thứ cấp có thể cung cấp dịch vụ ví điện tử (hoặc thẻ gắn chip) bên ngoài hệ thống ngân hàng, cho phép người tiêu dùng tiến hành thanh toán ngang hàng. Một điểm đặc biệt là các thanh toán ngang hàng này có thể thực hiện ngoại tuyến, nghĩa là hai bên liên quan không cần nối mạng mà vẫn có thể trao đổi DC/EP như khi thanh toán bằng tiền giấy.
Dần thay thế tiền giấy và xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử mới
PBoC đã có một bước tiến rất dài trong việc phát triển công nghệ CBDC theo nguyên lý dựa trên token. Đến cuối tháng 6-2020, họ đã đăng ký 84 bằng sáng chế liên quan đến CBDC, từ cơ chế phát hành, chuyển đổi, thanh toán đến các vấn đề kỹ thuật như quy trình bảo mật, mã hóa, thẻ chip thông minh. Vì PBoC không/chưa công bố sách trắng liên quan đến DC/EP nên chưa thể khẳng định đồng tiền này áp dụng tất cả các bằng sáng chế đã được đăng ký đó.
Nhưng xét tổng thể độ phủ của 84 bằng sáng chế PBoC đã công bố, có thể nói tham vọng của họ khá lớn. Mục tiêu chính tất nhiên là thay thế dần đồng tiền giấy nhân dân tệ trong nền kinh tế Trung Quốc. Nhưng bên cạnh đó DC/EP còn nhắm đến việc xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử hiệu quả, an toàn, thuận tiện hơn hệ thống thanh toán truyền thống (liên ngân hàng, thẻ debit/credit) và cả những nền tảng mới nổi như Alipay, WeChat hay các blockchain. Bản thân cái tên DC/EP đã bao hàm tham vọng này (EP = Electronic Payment).
Chưa triển khai tham vọng cạnh tranh/soán ngôi đô la Mỹ
Tuy vậy, một trong những đồn đoán phổ biến trước đây về tham vọng của PBoC phát hành CBDC nhằm cạnh tranh/soán ngôi đô la Mỹ trên thị trường tài chính quốc tế có vẻ chưa được triển khai ở giai đoạn này.
Cấu trúc hệ thống cũng như đặc thù của DC/EP gần như chỉ để phục vụ thị trường nội địa Trung Quốc. Nếu đồng tiền này vượt ra khỏi biên giới của họ, nó sẽ chỉ tồn tại trong các ví điện tử cá nhân, khó có thể len vào hệ thống tài chính quốc tế truyền thống chứ đừng nói gì thành một đồng tiền dự trữ/thanh toán quốc tế phổ biến như đô la Mỹ.
Lý do chính là các giao dịch liên ngân hàng bằng DC/EP phải thực hiện qua tài khoản tại PBoC, ngay cả các giao dịch nhỏ lẻ (ngoại tuyến) cuối cùng vẫn phải được PBoC chứng thực. Chưa rõ DC/EP sẽ kết nối thế nào với CIPS, hệ thống thanh toán quốc tế do Trung Quốc sáng lập cho riêng nhân dân tệ, chứ đừng nói gì với SWIFT là hệ thống bao phủ gần như toàn bộ các ngân hàng quốc tế.
Đây là trở ngại lớn cho bất kỳ ngân hàng quốc tế nào cần giao dịch bằng DC/EP, với cơ chế hiện tại họ buộc phải thông qua một ngân hàng Trung Quốc. Có lẽ mục tiêu mà PBoC nhắm tới trước mắt chưa phải là quốc tế hóa đồng DC/EP mà là quốc tế hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật họ xây dựng cho đồng tiền này để các nước áp dụng khi triển khai CBDC của mình. Trung Quốc đang thất bại khi đưa công nghệ di động 5G mà họ phát triển ra thế giới, liệu họ có thành công hơn với các tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến tiền số quốc gia?
Bên trong cuộc đua... tiền số quốc gia của các nước
Cũng theo BIS, ở thời điểm hiện tại, có khoảng 80% các ngân hàng trung ương trên thế giới đang nghiên cứu hoặc thử nghiệm một phiên bản CBDC nào đó. Ngay cả Fed dù đã loại bỏ phương án “đi cửa sau” của TNB cũng đang nghiên cứu các nền tảng CBDC khác.
Ngoài ưu điểm của các công nghệ mới (blockchain, sổ cái phân tán (distributed ledger), hợp đồng thông minh, ví điện tử), triển khai CBDC cho công chúng có một lợi thế lớn cho các ngân hàng trung ương khi đang phải đối mặt với tình trạng lãi suất đã rớt xuống gần 0.
Bởi giữ tiền giấy tương đương với “gửi tiết kiệm” với lãi suất bằng 0 nên khi ngân hàng trung ương muốn đẩy lãi suất xuống dưới 0, người dân sẽ chuyển từ để tiền trong ngân hàng sang giữ tiền giấy, làm giảm đáng kể tác động của chính sách tiền tệ và gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại huy động vốn. Một khi CBDC thay thế hoàn toàn tiền giấy, các ngân hàng trung ương có thể đẩy lãi suất xuống dưới 0 dễ dàng mà không sợ tâm lý e ngại lãi suất âm.
Ngoài ra, thực thi chính sách “phát tiền cho dân” (helicopter money) như Milton Friedman từng khuyến cáo, nghĩa là tăng cung tiền đồng bộ cho toàn nền kinh tế, sẽ rất dễ dàng khi ví tiền của mọi người dân đều là điện tử. Ý tưởng ấn định lãi suất khác nhau cho các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế tương tự như Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đang cố gắng triển khai cũng dễ thực hiện hơn trong một hệ thống tài chính có CBDC, nhất là khi nó được tích hợp công nghệ hợp đồng thông minh.
Ngoài những thuận lợi liên quan đến thực thi chính sách tiền tệ, Yao Qian, cựu giám đốc Viện Nghiên cứu tiền số của PBoC và là người đứng tên phần lớn các bằng sáng chế của PBoC, đã công khai: DC/EP sẽ cung cấp một bộ số liệu lớn (big data) cho PBoC bởi mọi giao dịch dù nhỏ đến đâu cuối cùng cũng được PBoC ghi nhận.
Trung Quốc đã có một số thành tựu dẫn đầu thế giới về trí tuệ nhân tạo (AI) ở các lĩnh vực ngoài tài chính dựa vào những bộ dữ liệu mà các nước khác không thể có. Với bộ số liệu lớn các giao dịch DC/EP vô cùng chi tiết như vậy, PBoC và cả các công ty công nghệ tài chính (FinTech) của Trung Quốc sẽ lại có một lợi thế nữa trong cuộc chạy đua xây dựng các ứng dụng AI trong tài chính.
Lo ngại về quyền riêng tư, nhìn từ Trung Quốc
Nhưng dù với ngôn từ hoa mỹ đến đâu, không khó để thấy vấn đề quyền riêng tư của đồng tiền này sẽ không thể bằng tiền giấy. PBoC đưa ra một khái niệm mới là “sự ẩn danh có kiểm soát”, nghĩa là người tiêu dùng khi giao dịch sẽ không bị lộ hết thông tin cá nhân cho đối tác, nhưng mức độ bí mật thông tin đến đâu có thể điều chỉnh được từ trung tâm, tức là từ chính PBoC.
Ví dụ, cùng là giao dịch xuất tiền nhưng một ví điện tử có thể tiết lộ nhiều thông tin của chủ nhân cho một ngân hàng hơn là cho một siêu thị. Giới ủng hộ DC/EP viện dẫn yêu cầu chống rửa tiền (AML) hay nắm rõ khách hàng (KYC) để biện hộ cho chức năng “ẩn danh có kiểm soát”. Nhưng ở một quốc gia đang chấm tín dụng xã hội cho mọi công dân thì bộ số liệu này liệu có bị chính quyền sử dụng cho các mục đích ngoài kinh tế?
Và những lo ngại khác
Lo ngại về vấn đề quyền riêng tư là một lý do Fed và nhiều ngân hàng trung ương phương Tây còn do dự với CBDC, nhưng đây không phải lý do duy nhất. Khi từ chối đơn xin thành lập TNB, Fed viện dẫn hai lý do. Thứ nhất, Fed không muốn bảng cân đối kế toán của mình phình quá to khi phải tăng thêm tài sản nợ tương ứng với số CBDC được phát hành. Đây là vấn đề của hệ thống dựa trên tài khoản, bởi người dân có thể chuyển đổi tài sản nợ của các ngân hàng thương mại thành tài sản nợ của ngân hàng trung ương làm tăng độ lớn của bảng cân đối kế toán mà không cần ngân hàng trung ương chủ động phát hành thêm CBDC.
Thứ hai, Fed cho rằng TNB và những ngân hàng như vậy sẽ là chỗ tránh bão (safe haven) cho người dân và doanh nghiệp khi nền kinh tế/hệ thống tài chính xảy ra khủng hoảng. Điều này sẽ tạo ra những làn sóng tháo chạy (flights to safety) gây bất ổn cho hệ thống tài chính ở những thời điểm khó khăn. Không chỉ với những hệ thống dựa trên tài khoản như TNB, ngay cả khi dựa trên token người dân cũng có thể đồng loạt rút CBDC về ví điện tử cá nhân (trong máy tính, điện thoại thông minh hay thẻ chip) gây khó khăn thanh khoản tức thời cho các tổ chức tài chính.
Ở hầu hết các quốc gia, bên cạnh nhiệm vụ thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương còn có trách nhiệm đảm bảo tính ổn định cho hệ thống tài chính và hệ thống thanh toán quốc gia. Nếu phát hành CBDC gây ra rủi ro cho sự ổn định, lợi ích từ việc điều hành chính sách tiền tệ dễ dàng hơn không phải là cái giá để đánh đổi. Hơn nữa Fed và các ngân hàng trung ương phương Tây luôn giữ quan điểm tránh cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp tư nhân trong địa hạt kinh doanh của họ, không như PBoC sẵn sàng đối đầu trực tiếp với Alipay/Tencent trên thị trường dịch vụ thanh toán.
Dõi theo người mở đường Trung Quốc
Đến thời điểm này vẫn còn quá sớm để đánh giá mức độ thành công/thất bại của DC/EP. Có lẽ các ngân hàng trung ương đang theo dõi rất kỹ thử nghiệm của PBoC để rút kinh nghiệm sau này. Không sớm thì muộn CBDC sẽ thay thế tiền giấy trong các nền kinh tế. Lựa chọn thiết kế/công nghệ nào cho CBDC của mình là một bài toán khó nhưng các ngân hàng trung ương, kể cả Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, không thể né tránh. Bởi vậy, bất kể động cơ của PBoC khi phát hành DC/EP là gì, thế giới vẫn sẽ phải cám ơn họ đã/sẽ giúp những người đi sau tránh được những hiểm nguy khó thấy.