(KTSG Online) - Sức ép từ rác thải đô thị đang đẩy nhiều địa phương vào tình thế lúng túng. Chôn lấp ngày càng bế tắc, trong khi đốt rác phát điện, giải pháp được kỳ vọng, vẫn chưa phát huy tác dụng vì vướng cơ chế giá và cách quản lý mà người mua dịch vụ lại là người quyết định giá.
- Phát điện từ rác thải cần chính sách hỗ trợ đồng bộ để gỡ vướng
- Đốt rác phát điện: mảnh ghép còn thiếu cho phân loại rác đầu nguồn
“Quả bom nổ chậm” trong lòng đô thị
Theo báo chí, giữa tháng 6, Công ty Công Lý – đơn vị xử lý hơn 80% rác tỉnh Cà Mau – bất ngờ xin tạm ngưng tiếp nhận rác vì thu phí 350.000 đồng/tấn suốt hơn 10 năm, lỗ hơn 200 tỉ đồng. Doanh nghiệp đề xuất tăng giá lên 478.000 đồng/tấn nhưng chưa được tỉnh phê duyệt, khiến rác ùn ứ hàng ngàn tấn, chính quyền phải vất vả “chữa cháy” cho tới nay.
Câu chuyện này không riêng ở Cà Mau. Từ nhiều năm nay, tình trạng nhà máy quá tải, bãi rác ngưng tiếp nhận, tranh cãi về đơn giá… xảy ra ở khắp nơi, kể cả TPHCM.
TPHCM phát sinh khoảng 14.000 tấn rác sinh hoạt mỗi ngày (trong đó khu vực cũ 10.500 tấn, Bình Dương 2.400 tấn, Bà Rịa - Vũng Tàu 1.100 tấn). Phần lớn được đưa về Đa Phước và Phước Hiệp, những nơi nhiều lần “kêu cứu” vì hết quỹ đất. Đa Phước hiện đã tiếp nhận hơn 28 triệu tấn rác, vượt công suất thiết kế 24 triệu tấn.

Giờ đây, những ai có dịp đi xe ô tô trên cao tốc Bến Lức - Long Thành, đoạn qua Bình Chánh sẽ nhìn thấy gần cao tốc có ngọn đồi cao, rộng lớn, không có cây xanh như đồi núi bình thường, bởi đó chính là bãi rác Đa Phước rộng hơn 120 héc ta.
Rác phát sinh nhanh hơn năng lực xử lý đang là điểm chung ở hầu hết các đô thị Việt Nam. Sự quá tải không chỉ là vấn đề môi trường, mà còn kéo theo rủi ro xã hội, tài chính và suy giảm niềm tin của cộng đồng.
Đốt rác phát điện có phải “cây đũa thần”?
Đốt rác phát điện được nhiều thành phố theo đuổi nhờ ưu điểm giảm chôn lấp, tận dụng năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính, dù không ít chuyên gia nghi ngờ về khả năng giảm phát thải. Ở Hà Nội, nhà máy điện rác Sóc Sơn công suất 4.000 tấn/ngày đã hòa lưới điện; Cần Thơ vận hành nhà máy từ năm 2018, xử lý khoảng 400 tấn/ngày.

TPHCM cũng định hướng chuyển từ chôn lấp sang đốt rác phát điện, đã ký hợp đồng BOO, PPP với nhiều doanh nghiệp như Vietstar, Tâm Sinh Nghĩa và đang đánh giá dự án tại Đa Phước. Tuy nhiên đến nay chưa có nhà máy nào vận hành thương mại.
Công nghệ này không mới, thậm chí nhiều quốc gia đã giảm đầu tư vì chuyển sang công nghệ tái chế tiên tiến hơn, nhưng hiện là phương án khả dĩ nhất ở Việt Nam. Điểm khác biệt là rác ở Việt Nam gần như 99% chưa phân loại tại nguồn. Do vậy, nhà máy phải đầu tư dây chuyền sàng lọc, làm giảm hiệu suất đốt, tốn kém và hao mòn thiết bị. Ngay cả khi công suất thiết kế lớn, cũng khó theo kịp tốc độ phát sinh rác nếu không có chiến lược giảm rác và phân loại ngay từ đầu.
Tranh luận về giá xử lý rác chưa có hồi kết
Xử lý rác ở Việt Nam chủ yếu là dịch vụ công, phần lớn kinh phí từ ngân sách. Giá dịch vụ do UBND xây dựng và HĐND phê duyệt. Với các dự án xã hội hóa, mức giá cũng phải được địa phương chấp thuận.
Doanh nghiệp thường yêu cầu đơn giá cao để bù đắp chi phí đầu tư và rủi ro (bãi rác vốn hay có nhiều rủi ro tiềm ẩn về môi trường, sự cố, ô nhiễm…), trong khi chính quyền dựa vào khung định mức cũ, lo ngại kê cao và tới nay cũng không có khung giá cho từng loại hình xử lý. Việc thương lượng kéo dài cho từng dự án riêng lẻ khiến nhiều dự án PPP chậm ký hợp đồng, dự án đình trệ.
Điều đáng buồn là ngày 12-7-2025, Thủ tướng đã ký Chỉ thị số 20/CT-TTg về một số nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường, trong đó có rác thải, nước thải... Thế nhưng sau đó, cả cộng đồng ùn ùn chỉ bàn mỗi việc xe điện thay xe xăng, trong khi rác thì ngập tràn khắp nơi, ô nhiễm môi trường do rác ngày càng nghiêm trọng.
Một bất cập khác là không có khung giá chuẩn cho từng công nghệ. Chôn lấp, đốt phát điện, tái chế… có chi phí rất khác nhau nhưng vẫn phải trình thẩm định từng dự án. Ở các nơi ít nhà máy nhưng nhiều rác, tình trạng “độc quyền tự nhiên” càng làm tranh cãi về đơn giá gay gắt.
Trong khi báo chí hay đăng tin bài các vụ tranh cãi giá xử lý rác, địa phương thì vất vả lo xử lý rác ùn ứ bởi các công ty quản lý bãi rác đôi khi “làm mình làm mẩy” thì vài năm tới, cơ bản các bãi rác ở các địa phương không còn đất trong quy hoạch dành cho bãi rác, không còn chỗ để chôn lấp, kể cả đô thị lớn như TPHCM.
Bài toán quản trị rác còn để ngỏ
Áp lực rác thải đáng ra phải thúc đẩy đổi mới công nghệ, nhưng cơ chế chậm thay đổi đang là lực cản. Các dự án điện rác bị treo 5-7 năm không phải vì thiếu vốn, mà vướng thủ tục phê duyệt giá và cam kết mua dịch vụ.
Trong khi đó, phân loại rác tại nguồn – điều kiện tiên quyết để giảm chi phí xử lý – mới chỉ dừng ở thí điểm. Hệ thống thu gom rác dân lập khó thay đổi, nên các nhà máy vẫn phải tốn thêm dây chuyền tách rác, đẩy chi phí lên cao. Rác ở Việt Nam lại có độ ẩm hơn 60%, chất thải hữu cơ nhiều, làm nhiệt lượng khi đốt không ổn định. Khi thiếu nhiệt, lò đốt phải bổ sung dầu DO, khiến chi phí đội lên.

Vấn đề xử lý rác hiện nay ở Việt Nam không chỉ là công nghệ mà là quản trị. Khi thị trường xử lý rác chưa có cạnh tranh thực sự, chính quyền địa phương vừa “cầm cân nảy mực” vừa là “người mua dịch vụ”. Vị thế kép này khiến mọi tranh cãi về giá và dự án khó được giải quyết theo cơ chế thị trường.
Nếu chỉ trông chờ vào đốt rác phát điện, các đô thị như TPHCM sẽ luôn chạy theo lượng rác phát sinh. Ở nhiều quốc gia, phí xử lý được tính theo khối lượng rác mà mỗi hộ dân thải ra, tạo động lực giảm rác từ gốc. Thị trường dịch vụ xử lý rác hoạt động theo cơ chế đấu thầu cạnh tranh, hợp đồng dài hạn và giá dịch vụ được kiểm toán độc lập.
Với Việt Nam, cần xây dựng khung giá chuẩn quốc gia cho từng công nghệ, dựa trên chi phí vòng đời, để địa phương tham chiếu. Chính sách mua điện từ rác cũng cần minh bạch và ổn định để thu hút đầu tư.
Một đô thị hiện đại phải cùng lúc làm ba việc: giảm rác từ nguồn, phân loại triệt để và áp dụng cơ chế giá minh bạch. Cả ba việc này hiện vẫn còn chắp vá ở nhiều đô thị Việt Nam.
Tại sao không căn cứ giá đốt rác mà thiết bị đó đã thi công và lắp ráp ở nước nào đó ! Vì chi phí vận hành của các thiết bị khác nhau giá khác nhau ,hàng TQ thì rẻ hơn hàng tây nhưng chất lượng kém hơn ,và chi phí thiết bị hư mòn ở đâu cũng vậy ,ta không thể áp giá quá rẻ nếu đó là thiết bị của Anh hay Đức
Nên thí điểm giá thu gom rác
• Chốt “trả theo lượng” bằng túi rác chuẩn
Không “cân rác trước cửa nhà”. Bán túi rác đạt chuẩn (kích cỡ/giá khác nhau), hộ nào thải nhiều mua nhiều. Đây là thông lệ PAYT và cũng là tinh thần Luật BVMT 2020; cơ quan quản lý đã nói rõ không phải “cân rác tính tiền”.
• Neo giá bằng cấu phần minh bạch
Công bố 3 cấu phần: thu gom tại nguồn – vận chuyển – xử lý; cập nhật hằng năm. TPHCM đã có bảng đơn giá theo kg cho từng cấu phần (ví dụ quận/TP Thủ Đức: khoảng 486 đồng/kg cho thu gom; 180 đồng/kg cho vận chuyển; xử lý ~420 đồng/kg). Minh bạch giúp so sánh giữa quận/huyện, khóa thất thoát.
• Bậc thang chống “sốc phí”, giữ động lực giảm rác
Giữ bậc thang thấp cho hộ phát sinh ít, chuyển sang tính theo kg khi vượt ngưỡng. Cách TPHCM đang áp dụng: ≤126 kg/tháng trả gói (ví dụ 61.000 đồng thu gom + 23.000 vận chuyển ở quận); càng nhiều rác càng trả cao, trên 420 kg/tháng tính theo kg. Mô hình này vừa dễ hiểu, vừa tạo động lực giảm phát sinh.
• “Khóa chéo” với phân loại – ai trộn rác trả cao hơn
Gắn giá túi đen (rác còn lại) cao hơn túi tái chế/hữu cơ. Đi kèm quy định xử phạt không phân loại. Khung xử phạt đã có (500.000–1.000.000 đồng), vấn đề là thực thi và… kiểm tra đột xuất theo tuyến xe/điểm tập kết.
• EPR và ngân sách địa phương phải “đồng tác giả” của giá
Phần chi phí xử lý do EPR (bao bì) chi trả cần hạch toán riêng để giảm giá túi tái chế. Ngân sách hỗ trợ nhóm dễ tổn thương (hộ nghèo/cận nghèo/nhà trọ công nhân) qua phiếu mua túi rác hoặc “định mức miễn phí” tối thiểu theo đầu người.
• Số hóa toàn chuỗi – khóa gian lận, nuôi dữ liệu
Mã hóa túi (QR/tem), app cho tổ thu gom quét khi nhận – giao, đồng bộ khối lượng chuyến xe – trạm trung chuyển – nhà máy xử lý. Công khai dashboard số chuyến, tần suất thu gom, khiếu nại. Bắt buộc niêm yết giá túi tại điểm bán, hóa đơn điện tử.
• Hợp đồng dịch vụ theo KPI, không chỉ “tấn-km”
Đấu thầu công khai; KPI gồm: tần suất thu đúng giờ, tỉ lệ rác phân loại đạt chuẩn, tỉ lệ phản ánh xử lý trong 24 giờ. Thưởng – phạt vào đơn giá kỳ sau. Đơn giá xử lý ưu tiên công nghệ tái chế/tái sinh hơn chôn lấp.
• Thí điểm nhanh – mở rộng có kiểm soát
Ưu tiên tuyến phố/khối dân cư có sẵn tổ dân phố hoạt động mạnh để thí điểm túi chuẩn và số hóa. Đánh giá 3–6 tháng rồi nhân rộng. Truyền thông phải nhất quán: “không cân tại nhà, mua túi đúng chuẩn là đủ”.