Thứ Sáu, 15/08/2025
31.1 C
Ho Chi Minh City

Khó có thể truy đòi tài sản thế chấp đã bị đem bán

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Khó có thể truy đòi tài sản thế chấp đã bị đem bán

Bùi Đức Giang (*)

Khó có thể truy đòi tài sản thế chấp đã bị đem bán
Bất động sản là một trong những loại tài sản thế chấp phổ biến. Ảnh: THANH TAO

(TBKTSG) - LTS: Khoản 3 điều 297 của dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi (dự thảo) cho phép bên thế chấp được “bán, thay thế, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn đối tượng của quyền thế chấp mà không cần có sự đồng ý của bên nhận thế chấp”.

Quy định mới này , theo ban soạn thảo, xuất phát từ thực tế tài sản thế chấp mang đi đảm bảo bị đóng băng và không khai thác được giá trị kinh tế vì rất ít trường hợp bên nhận thế chấp đồng ý cho bên thế chấp bán tài sản.

Các ý kiến đóng góp đang trái chiều nhau, TBKTSG xin giới thiệu với bạn đọc.

Để bảo vệ bên nhận thế chấp, khoản 3, điều 299 của dự thảo trao cho bên nhận thế chấp quyền truy đòi tài sản thế chấp từ bên kia của các giao dịch này khi xử lý tài sản thế chấp. Mới nhìn qua, đây là một ý tưởng tương đối mới mẻ, song chưa thực sự phù hợp trong bối cảnh pháp luật và thực tiễn của Việt Nam.

Trước hết, khi bên thế chấp được tự ý định đoạt tài sản thế chấp, khó khăn dễ thấy sẽ đặt ra đối với bên nhận thế chấp là phải tìm hiểu chuỗi quan hệ pháp lý đối với tài sản thế chấp. Bởi vì một tài sản có thể được chuyển giao thông qua nhiều hợp đồng mua, bán, trao đổi khác nhau, liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau và để xác định chính xác các mối quan hệ này, cần thời gian và chi phí. Hệ quả là ngân hàng phải tính chi phí vay cao hơn để bù đắp các chi phí này.

Có thể hiểu thông qua việc cho phép bên thế chấp được tự do định đoạt tài sản thế chấp, dự thảo muốn tạo điều kiện cho bên thế chấp được khai thác giá trị kinh tế của tài sản thế chấp. Tuy vậy, cần phải thấy trong điều 297, dự thảo đã trao cho bên thế chấp rất nhiều quyền đối với tài sản thế chấp, như quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp hay được đầu tư vào tài sản thế chấp. Bên thế chấp còn có thể sử dụng một tài sản để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ, trong điều 298. Thêm vào đó, khi đưa tài sản vào bảo đảm, thực chất bên thế chấp đã khai thác giá trị kinh tế của tài sản: ngân hàng chỉ cho vay, cho vay với mức lãi suất hợp lý hay chủ nợ có bảo đảm khác chỉ ký kết hợp đồng với bên bảo đảm khi có tài sản thế chấp.

Quyền truy đòi chỉ thực sự phát huy tác dụng khi bên mua hay bên nhận trao đổi tài sản từ bên thế chấp thực sự có thiện chí hợp tác

Có vẻ ban soạn thảo hy vọng quyền truy đòi sẽ trở thành “điều kỳ diệu” giúp bảo vệ quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm. Tuy vậy, quyền truy đòi chỉ thực sự phát huy tác dụng khi bên mua hay bên nhận trao đổi tài sản từ bên thế chấp thực sự có thiện chí hợp tác. Ở các nước theo chế độ vật quyền, các bên này thường chủ động thanh toán giá bán tài sản cho bên nhận thế chấp hay thực hiện việc ký quỹ giá bán để tránh chịu hậu quả trong trường hợp bên nhận thế chấp thực hiện quyền truy đòi. Thêm vào đó quyền truy đòi chỉ áp dụng với các tài sản hữu hình chứ không thể áp dụng với các tài sản vô hình (quyền tài sản) trong khi thế chấp là giao dịch bảo đảm áp dụng cho mọi tài sản vô hình.

Cũng cần thấy trong thực tế, các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong trường hợp nhận tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhất là khi bên bảo đảm không ngay tình hay lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.

Giải pháp bỏ quy định cấm bên thế chấp không được định đoạt tài sản thế chấp chỉ khả thi nếu pháp luật Việt Nam đồng thời công nhận một số biện pháp bảo đảm khác đặt ra điều kiện việc định đoạt tài sản bảo đảm phải được sự đồng ý của chủ nợ có bảo đảm, qua đó tạo điều kiện cho bên nhận thế chấp có nhiều sự lựa chọn.

Về điểm này có thể tham khảo kinh nghiệm pháp luật Anh. Biện pháp thế chấp (charge) của Anh gồm hai dạng là (i) thế chấp thả nổi (floating charge) thường áp dụng với tài sản luân chuyển của doanh nghiệp (nguyên nhiên liệu, hàng tồn kho hay quyền đòi nợ…), cho phép bên thế chấp được định đoạt tài sản bảo đảm và (ii) thế chấp cố định (fixed charge) thường được sử dụng với các tài sản cố định như đất đai, công trình xây dựng, nhà máy…, mà theo đó, bên thế chấp không được định đoạt tài sản bảo đảm khi chưa được bên nhận thế chấp đồng ý. Tương tự, giao dịch mortgage áp dụng cho mọi loại tài sản kéo theo việc chuyển giao tạm thời quyền sở hữu tài sản cho bên nhận bảo đảm nên bên bảo đảm không còn quyền định đoạt được tài sản bảo đảm nữa.

Có thể thấy chế định vật quyền bảo đảm cùng quyền truy đòi tự thân chúng không bảo đảm hiệu quả của thế chấp và do đó quy định cho phép bên thế chấp được định đoạt tài sản thế chấp nếu được thông qua sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm.

(*)Tiến sĩ, Công ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC

Liệu có “hợp pháp hóa” vấn nạn tẩu tán tài sản thế chấp?

Quy định của dự thảo rất mới và có hàm ý ngược hoàn toàn so với các quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 hiện hành. Đành rằng dự thảo cũng cho phép ngân hàng có quyền truy đòi tài sản thế chấp đến cùng, dù tài sản thế chấp đang do bất cứ ai nắm giữ. Thế nhưng, có thể thấy việc này... không dễ!

Xin nêu một tình huống giả định: Ông A vay tiền của ngân hàng M và thế chấp nhà, đất của mình tại ngân hàng M để bảo đảm cho khoản vay. Ông A bán nhà, đất đang thế chấp cho ông B và không trả được nợ. Trước tiên, ngân hàng M yêu cầu ông B tự nguyện bàn giao và tổ chức thu giữ tài sản thế chấp từ ông B.

Bởi ông B đã phải bỏ ra một khoản tiền để mua nhà đất từ ông A, nên không dễ dàng hy sinh quyền lợi của mình. Các quy định hiện hành về thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP, Nghị định 11/2012/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 16/204/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN (có hiệu lực từ ngày 22-7-2014) không có đầy đủ cơ chế bắt buộc ông B phải thực hiện nghĩa vụ bàn giao tài sản thế chấp cho ngân hàng M, mà chỉ có quy định chung về việc phối hợp, hỗ trợ của chính quyền địa phương khi ngân hàng M thu giữ tài sản thế chấp từ ông B. Dù ngân hàng M và chính quyền địa phương có tích cực, nỗ lực đến mấy trong việc thu giữ tài sản thế chấp mà ông B không hợp tác, không tự nguyện bàn giao, thì ngân hàng M vẫn không thể thực hiện được quyền truy đòi tài sản thế chấp. Để tiếp tục thực hiện được quyền này, không còn cách nào khác, ngân hàng M phải nhờ đến sự can thiệp của tòa án. Trên thực tế, đây là một quá trình phải qua nhiều bước thủ tục, rất tốn thời gian, chi phí, nhưng không chắc thu được kết quả như mong muốn vì không dễ thi hành án.

Trong khi đó, nếu được thông qua, quy định này sẽ vô tình khuyến khích cho vấn nạn bên thế chấp câu kết với các bên khác tẩu tán tài sản thế chấp hòng trốn nghĩa vụ với ngân hàng. Khi đó, khó khăn của ngành ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm ngày càng gia tăng, dẫn đến tình trạng phát sinh thêm nhiều nợ xấu khác và tác động không nhỏ đến việc tăng trưởng tín dụng, phát triển kinh tế - xã hội.

Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý rằng, thế chấp hiện đang được coi là biện pháp bảo đảm có vai trò rất quan trọng để giúp bảo vệ an toàn cho các khoản cho vay của ngân hàng. Trước những khó khăn của việc thực hiện quyền truy đòi tài sản, có thể ngành ngân hàng sẽ không mạnh dạn cho vay nữa, qua đó, làm giảm đáng kể hiệu quả của giao dịch bảo đảm và vô hiệu hóa chế định thế chấp tài sản.

Quy định này chỉ thật sự khả thi và không mang lại những hệ lụy xấu cho ngành ngân hàng, khi có thêm những thay đổi đáng kể trong việc giúp ngân hàng thực hiện quyền truy đòi, thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm theo hướng rút gọn, nhanh chóng, thuận tiện - điều mà dự thảo chưa thể hiện rõ.

Lê Trọng Dũng

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới