(KTSG) - Nghị quyết 68-NQ/TW khôi phục vị thế kinh tế tư nhân là một sự đột phá lay động tinh thần tầng lớp doanh nhân Việt Nam. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân là một thuật ngữ kinh tế chính trị cần phải trải qua một quá trình thể chế hóa, chuyển hóa thành các thuật ngữ pháp lý, các quy phạm pháp luật thích ứng với hệ chuẩn kinh tế thị trường...
- Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: kinh tế tư nhân ở tuyến đầu phát triển
- Thủ tướng làm trưởng ban chỉ đạo quốc gia về phát triển kinh tế tư nhân

Đó là bởi vì kinh tế tư nhân không phải là thực thể pháp lý có khả năng mang quyền và nghĩa vụ pháp lý; không có giấy chứng nhận sở hữu nào được cấp cho kinh tế tư nhân, không có giấy phép hay giấy đăng ký kinh doanh nào được cấp cho kinh tế tư nhân; thay vào đó, mọi chính sách về kinh tế tư nhân cần được chuyển hóa thành quyền và nghĩa vụ pháp lý của từng cá nhân doanh nhân, từng doanh nghiệp.
Đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân hùng mạnh, trị giá hàng chục tỉ đô la, thì trước khi có Nghị quyết 68 họ dường như đã không gặp khó khăn trong tiếp cận vốn và đất đai. Nhưng cụm từ “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia” trong Nghị quyết 68 vẫn rất có ý nghĩa và được cắt nghĩa trong “kỷ nguyên vươn mình” qua thực tế các siêu dự án, đề án đột phá như đường sắt tốc độ cao, nền tảng blockchain layer 1, AI factory đã được giao hay có định hướng giao cho các công ty tư nhân.
Đối với các thương nhân nhỏ và vừa, Nghị quyết 68 đã được chuyển hóa thành các quy định về miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong ba năm đầu khởi nghiệp (đăng ký thành lập), bãi bỏ lệ phí môn bài... Các kết quả thể chế hóa ban đầu thật đáng khích lệ.
Kinh tế tư nhân không phải là thực thể pháp lý có khả năng mang quyền và nghĩa vụ pháp lý; không có giấy chứng nhận sở hữu nào được cấp cho kinh tế tư nhân, không có giấy phép hay giấy đăng ký kinh doanh nào được cấp cho kinh tế tư nhân; thay vào đó, mọi chính sách về kinh tế tư nhân cần được chuyển hóa thành quyền và nghĩa vụ pháp lý của từng cá nhân doanh nhân, từng doanh nghiệp.
Nền kinh tế vận hành tốt cần đến một hệ sinh thái cộng sinh và cạnh tranh lành mạnh, cần những doanh nghiệp trung gian kết nối các tập đoàn kinh tế khổng lồ với các doanh nghiệp, thương nhân nhỏ li ti. Nghị quyết 68 đã dành sự quan tâm cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa:
“Có cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo đảm theo nguyên tắc thị trường và tuân thủ các cam kết quốc tế”.
Sở dĩ doanh nghiệp nhỏ và vừa cần sự hỗ trợ, vì nhóm doanh nhân, doanh nghiệp siêu lớn thường có năng lực để bảo vệ tốt quyền sở hữu của họ mà không nhất thiết phải cần một hệ thống pháp luật hoàn hảo. Hay nói cách khác, chậm cải cách thể chế sẽ duy trì lợi thế so sánh tương đối cho các tập đoàn kinh tế, bởi trong một hệ thống pháp luật còn bất cập thì các lợi thế của họ sẽ được phát huy khả năng tối đa. Và nếu các cải cách thể chế không đạt được kết quả như mục III của Nghị quyết 68 đặt ra thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ phải tham gia một cuộc chiến không cân sức và tiếp tục nhận về kết cục như suốt gần 40 năm qua.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng thường phải làm nhà thầu phụ, phải chấp nhận các hợp đồng mẫu do các tập đoàn kinh tế đưa ra. Và nếu có phát sinh tranh chấp, các doanh nhân nhỏ, siêu nhỏ sẽ không có đủ nguồn lực để trang trải chi phí pháp lý; ở chiều ngược lại, các tập đoàn kinh tế lớn không chỉ có nhiều nguồn lực, lắm quan hệ, mà sẵn sàng đổ tiền chi cho “trận chiến pháp lý mở màn chuỗi tranh chấp với các nhà thầu phụ, với các khách hàng đơn lẻ”. Và phần bất lợi, bất công thường thuộc về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ, họ đều chịu sự điều chỉnh chung của một khuôn khổ pháp lý thiếu ổn định, với tuổi thọ trung bình của luật là năm năm, của nghị định là ba năm và của thông tư là hai năm sẽ trải qua sửa đổi, bổ sung. Việc lập chiến lược, kế hoạch hay vay vốn trung hạn, dài hạn đều trở nên bất định, may rủi.
Dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, suy cho cùng chính là một phần, một khía cạnh quyền sở hữu của các cổ đông, thành viên góp vốn. Đây là một quyền hiến định và cần có cơ chế bảo vệ phù hợp với nền kinh tế thị trường, với thông lệ quốc tế.
Quyền sở hữu ở Việt Nam đang có một số điểm cần điều chỉnh. Thứ nhất, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng quyền sử dụng đất là một quyền tài sản và được ghi nhận là một loại tài sản theo điều 105 và điều 115 Bộ luật Dân sự 2015, cũng như được ghi nhận trong các loại giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (thường được gọi tắt là “sổ đỏ”), được các ngân hàng chấp nhận làm tài sản bảo đảm. Như vậy, việc thu hồi quyền sử dụng đất cần theo thủ tục trưng mua hoặc theo nguyên tắc tự do thỏa thuận thay vì cơ chế dùng mệnh lệnh hành chính. Điều này đòi hỏi cần điều chỉnh lại các quy định về thu hồi đất trong Luật Đất đai 2025.
Thứ hai, cho phép khởi kiện tập thể (class action) để các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hay người tiêu dùng, có thể liên kết lại với nhau thực hiện các vụ kiện tập thể. Có như vậy họ mới đủ nguồn lực để theo đuổi cuộc chiến pháp lý chống lại các tập đoàn kinh tế lớn. Điều này đòi hỏi điều chỉnh về tư cách nguyên đơn, mối quan hệ của các nguyên đơn trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, cũng như các nguyên tắc về phân chia lợi ích khi thắng kiện và cơ chế “thẩm quyền đại diện suy đoán” cho các hội doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoặc một nhóm từ 50 nguyên đơn.
Thứ ba, trao quyền tự chủ mạnh mẽ cho doanh nghiệp - trao quyền tự định đoạt - khi lựa chọn tòa án, trọng tài hay bất kỳ thiết chế nào mà họ tin tưởng rằng sẽ ít tiêu cực, nhanh chóng, hiệu quả để giải quyết tranh chấp. Nếu các bên đã lựa chọn trọng tài, thì khi phán quyết trọng tài bị hủy, việc xét xử sơ thẩm cần được trả trở lại cơ chế trọng tài. Điều này đòi hỏi sửa đổi khoản 8, điều 71 Luật Trọng tài thương mại 2010. Đồng thời, sửa đổi một số quy định liên quan Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật Công chứng 2024, Luật Thi hành án dân sự 2025 sao cho việc tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ dân sự không còn dễ như hiện nay.
Thứ tư, bổ sung quy trình lấy phiếu tín nhiệm tam giới (giới luật sư, luật gia - giới thẩm phán - giới kiểm sát viên) đối với các thẩm phán để bảo đảm hệ thống xét xử được xã hội tín nhiệm cao, tránh hiện tượng một tỷ lệ lớn lãnh đạo tòa án cùng bị khởi tố vì tội nhận hối lộ như Tòa án Cấp cao Đà Nẵng(1).
Thứ năm, khi tất cả những bất cập pháp lý nêu trên được khắc phục, nền kinh tế Việt Nam sẽ bớt đi những lỗ hổng pháp lý và thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ được đánh giá là rủi ro trung bình, và sẽ được nhiều tổ chức nâng hạng lên mới nổi (emerging). Các định chế tài chính quốc tế sẽ điều hướng dòng vốn ở các thị trường lãi suất thấp sang thị trường Việt Nam và thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ thực sự trở thành kênh huy động vốn cho sản xuất hiệu quả thay vì doanh nghiệp sản xuất đang phụ thuộc nhiều vào vốn vay từ ngân hàng như hiện nay.
Khi chính sách tiến bộ về kinh tế tư nhân được chuyển hóa thành các quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp, của người dân một cách đầy đủ thì mọi vật, mọi quyền của người dân, của doanh nghiệp sẽ đẻ ra “tài lộc” cho chủ sở hữu, từ tài sản sẽ được trả về đúng nghĩa gốc của nó: sản sinh ra tài lộc cho ông chủ. Mọi tài sản sẽ được đánh thức; và nếu ông chủ lười biếng, ngủ quên, nó sẽ tự tìm đến “bàn tay vàng, khối óc vàng” như thể mọi tài sản có linh hồn chọn chủ, có chân để rời xa chủ xấu. Và người dân Việt Nam sẽ hưởng quyền tư hữu trọn vẹn.
(*) Trọng tài viên VIAC, cố vấn IICL
(1) https://thanhnien.vn/chi-tiet-vu-cuu-pho-chanh-an-tand-cap-cao-da-nang-dau-thu-nhan-hoi-lo-185250724134717667.htm