(KTSG) - Cuộc khủng hoảng vật liệu xây dựng không còn là tình huống cục bộ hay ngắn hạn. Những con số mới nhất từ khảo sát quí 2-2025 của Cục Thống kê cho thấy, tình trạng thiếu nguồn cung, giá vật liệu leo thang đã và đang tạo thành lực cản lớn nhất đối với ngành xây dựng - một trong những động lực then chốt thúc đẩy đầu tư công và tăng trưởng kinh tế.
- Cần làm gì để thị trường vật liệu xây dựng ổn định dài hạn?
- Giá vật liệu xây dựng vẫn chưa dứt khỏi đà tăng
Tại cuộc họp báo công bố số liệu kinh tế - xã hội tháng 6-2025 và sáu tháng đầu năm 2025 vào cuối tuần trước, Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho biết, có tới 57,2% doanh nghiệp xây dựng nhận định “giá nguyên vật liệu tăng cao” là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động sản xuất kinh doanh trong quí 2-2025. Đồng thời, 54% doanh nghiệp cho biết chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong quí 2 đã tăng so với quí trước. Dự báo cho quí 3, hơn 50,7% doanh nghiệp tiếp tục lo ngại chi phí này sẽ còn leo thang.
Trong quí 2 vừa qua, chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu xây dựng tăng 0,72% so với quí 1 và tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước. Riêng nhóm đá, cát, sỏi, đất sét - các vật liệu đầu vào cơ bản nhất, đã tăng giá tới 10,61% trong quí 2 và 8,17% trong sáu tháng đầu năm nay, do nhiều cơ sở khai thác bị tạm ngừng hoạt động, nguồn cung khan hiếm.
Cục Thống kê cũng ghi nhận có 21,7% doanh nghiệp cho biết đang gặp khó khăn vì thiếu nguồn cung nguyên, vật liệu xây dựng, nhất là tình trạng giá không ổn định và chậm trễ trong việc giao hàng cho công trình. Những biến động bất thường về giá thép, xi măng, cát... đang trực tiếp bào mòn hiệu quả tài chính và kế hoạch thi công của các nhà thầu.
Thực tế ghi nhận ở nhiều địa phương cho thấy giá cát tăng đến mức khó tin. Tại Lạng Sơn, giá cát xây dựng từ mỏ Hùng Sơn đã tăng từ 300.000 đồng/mét khối lên 455.000 đồng/mét khối, trong khi giá công bố của Sở Xây dựng chỉ là 280.000 đồng/mét khối(1). Nguồn cung cát cũng khan hiếm đến mức báo động.
Ở Thanh Hóa, chỉ có 1 trong 30 mỏ cát được cấp phép còn hoạt động(2), không đủ đáp ứng nhu cầu cho hàng loạt dự án đang triển khai. Tại Quảng Nam, nơi đang triển khai hàng loạt dự án giao thông trọng điểm, gần như không có mỏ mới nào được cấp phép trong ba năm qua.
Không chỉ vậy, thị trường vật liệu xây dựng còn đang bị bóp méo bởi cơ chế đấu giá và quản lý khai thác còn nhiều lỗ hổng. Tại Quảng Nam(3), ba mỏ cát trúng đấu giá gần đây đều có mức giá cao bất thường: mỏ ĐL2 từ 7,59 tỉ đồng lên 491,7 tỉ đồng, mỏ ĐL11 từ 3,46 tỉ đồng lên gần 320 tỉ đồng - gấp hàng chục, thậm chí hàng trăm lần giá khởi điểm.
Những con số “không tưởng” này đặt ra dấu hỏi về tính minh bạch và thực chất trong đấu giá khoáng sản. Liệu nhà đầu tư có thực sự đủ năng lực khai thác hay chỉ “ôm mỏ” rồi sang nhượng? Nếu bỏ mỏ, địa phương không những không thu được tiền, mà còn mất thời gian, gián đoạn nguồn cung. Nếu nâng giá vật liệu để gỡ chi phí, thị trường sẽ càng méo mó.
Sự thiếu hụt nguyên, vật liệu xây dựng kéo dài khiến nhà thầu rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. “Chạy chợ” từ tỉnh này sang tỉnh khác để tìm vật liệu sẽ đẩy chi phí vận chuyển tăng vọt, kéo theo đó là lỗ, là khó khăn trong điều chỉnh dự toán, hợp đồng sau này. Không chấp nhận đội chi phí thì chậm tiến độ và chịu phạt từ chủ đầu tư.
Để tháo gỡ khó khăn, Chính phủ đã liên tục chỉ đạo. Gần đây nhất là Công điện 85/CĐ-TTg ngày 10-6-2025 yêu cầu các bộ, ngành và địa phương phối hợp hành động. Mới đây, Chính phủ cũng đã cho phép dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành tiếp tục được áp dụng cơ chế đặc thù theo Nghị quyết 60/NQ-CP (2021), đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết 133/NQ-CP. Ngoài ra, một số mỏ đá tại Đồng Nai, dù chưa hoàn tất thủ tục thuê đất nhưng đã đền bù, giải phóng mặt bằng, vẫn được cho phép khai thác tạm thời để phục vụ các dự án giao thông cấp quốc gia.
Tuy việc tiếp tục gia hạn và bổ sung danh mục các dự án được hưởng cơ chế đặc thù về khai thác mỏ đã từng được áp dụng hiệu quả để có thêm nguồn cung nguyên, vật liệu xây dựng, song đây vẫn chỉ là giải pháp tình thế. Còn gốc rễ vẫn nằm ở chỗ: thủ tục cấp phép mỏ rườm rà, chồng chéo; giá công bố không sát thực tế; trách nhiệm quản lý bị đùn đẩy. Những điểm nghẽn như thủ tục đất đai, đánh giá trữ lượng, tác động môi trường vẫn chậm được gỡ bỏ, khiến mỏ có cũng không thể khai thác, có vốn mà dự án vẫn “nằm chờ”.
Bài toán vật liệu xây dựng không thể mãi giải bằng cách “chạy theo” từng công trình. Như kiến nghị của các nhà thầu, việc xác định nguồn cung vật liệu xây dựng cần được xem là điều kiện tiên quyết trước khi phê duyệt hoặc khởi công dự án. Nếu không làm rõ từ đầu, tiến độ dự án có nguy cơ “treo” ngay sau lễ động thổ, còn chi phí đội vốn là điều chắc chắn.
Việc áp dụng cơ chế đặc thù, như đã làm với dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam hay sân bay Long Thành, là hợp lý trong hoàn cảnh cụ thể. Nhưng nếu cứ tiếp tục “giật gấu vá vai” như vậy, rất khó xây dựng một chiến lược phát triển hạ tầng bài bản, bền vững. Cần một giải pháp tổng thể, không chỉ cho từng mỏ, từng địa phương, mà cho cả hệ thống quy hoạch, cấp phép, khai thác và điều tiết giá vật liệu xây dựng. Cần thúc đẩy phát triển vật liệu xây dựng thay thế, công nghệ tái chế, sử dụng cát nghiền từ đá như nhiều nước đã làm…
Việt Nam đang chuẩn bị triển khai thêm 2.000 ki lô mét đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và nhiều công trình hạ tầng lớn khác. Rất khó để xây dựng những “đại công trình” trên một nền móng chính sách thiếu đồng bộ và thị trường vật liệu xây dựng biến động khó lường. Nếu không nhanh chóng gỡ nút thắt vật liệu xây dựng một cách bài bản, nguy cơ gián đoạn chuỗi đầu tư công, tăng chi phí xã hội, lãng phí nguồn lực là rất rõ ràng, kéo theo đó sẽ làm chậm bước đi của đất nước trên con đường phát triển hạ tầng hiện đại, đồng bộ và bền vững.
------------------------------
(1) https://laodong.vn/ban-doc/thi-cong-cao-toc-dong-dang-tra-linh-gap-kho-vi-gia-cat-tang-manh-1517045.ldo
(2) https://cand.com.vn/ban-doc-cand/toan-tinh-thanh-hoa-chi-con-1-mo-cat-dang-hoat-dong-i770471/
(3) https://tuoitre.vn/dau-gia-3-mo-cat-quang-nam-gia-khoi-diem-vai-ti-trung-hang-tram-ti-dong-20250620101345973.htm