Thứ Tư, 10/12/2025
32.8 C
Ho Chi Minh City

Kiến nghị sáu chính sách chiến lược đưa TPHCM thành siêu đô thị tầm khu vực và thế giới

Cẩm Hà

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG) - Để TPHCM thực sự trở thành một “siêu đô thị - trung tâm tài chính, sản xuất, logistics và đổi mới sáng tạo mang tầm khu vực và thế giới” và hiện thực hóa mục tiêu phát triển 2030, tầm nhìn 2045, cần thực hiện nhiều giải pháp đổi mới thể chế, chính sách, pháp luật mang tính đột phá, toàn diện hơn rất nhiều so với các cơ chế, chính sách đặc thù hiện hành.

Để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư hàng đầu thế giới, cần áp dụng các hình thức hợp đồng đầu tư. Thành phố cần được phân quyền để bảo đảm quyền đàm phán và ký các hợp đồng đầu tư hay thỏa thuận chiến lược. Ảnh: LÊ VŨ

Ngày 27-11-2025, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương phối hợp với Thành ủy - HĐND - UBND TPHCM đồng chủ trì chỉ đạo tổ chức hội thảo “Cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội thu hút đầu tư và nhà đầu tư chiến lược vào TPHCM trong tình hình mới”.

Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho biết, tại hội thảo, bên cạnh ý kiến góp ý sửa đổi Nghị quyết 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TPHCM, các đại biểu đề xuất sáu giải pháp chiến lược để đưa TPHCM trở thành một “siêu đô thị - trung tâm tài chính, sản xuất, logistics và đổi mới sáng tạo mang tầm khu vực và thế giới”, và hiện thực hóa mục tiêu phát triển 2030, tầm nhìn 2045.

Thứ nhất, cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TPHCM đúng với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; trước hết trong các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, quản lý đô thị, tài nguyên và môi trường, ban hành chính sách, pháp luật đặc thù trên cơ sở khung chính sách, pháp luật của trung ương. Những vấn đề vượt thẩm quyền, TPHCM có thể báo cáo trực tiếp trung ương và trung ương cũng có một đầu mối để giải quyết trong thời hạn nhất định.

Thứ hai, thu hút nhà đầu tư chiến lược phải theo phương châm “thu hút có chọn lọc và chăm sóc lâu dài, nhà đầu tư chiến lược là “đối tác phát triển”, cùng đồng hành và kiến tạo phát triển.

Theo đó, danh mục dự án đầu tư chiến lược gồm ba nhóm. Nhóm thứ nhất gồm các lĩnh vực có sức lan tỏa và tạo hiệu ứng cộng hưởng hệ thống, tập trung vào những ngành có khả năng thúc đẩy tăng trưởng, nâng cấp năng lực sản xuất - công nghiệp, giảm chi phí hệ thống và nâng tầm chuỗi giá trị. Nhóm này bao gồm các dự án phát triển công nghiệp chế biến công nghệ cao, tự động hóa, y sinh học, logistics vùng và liên vùng, hàng hải toàn cầu; các dự án nâng cấp hạ tầng kinh tế - xã hội, quản trị và đô thị thông minh; các dự án cải thiện dịch vụ công, giảm chi phí tuân thủ; cùng các dự án phát triển du lịch, dịch vụ chất lượng cao và văn hóa sáng tạo.

Để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư hàng đầu thế giới, cần áp dụng các hình thức hợp đồng đầu tư. Thành phố cần được phân quyền để bảo đảm quyền đàm phán và ký các hợp đồng đầu tư hay thỏa thuận chiến lược.

Nhóm thứ hai là các lĩnh vực công nghệ cao hoặc đón bắt xu thế công nghệ mới với các dự án chiến lược về trung tâm dữ liệu lớn và dữ liệu xanh, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), an ninh mạng, các nền tảng số phục vụ đô thị thông minh, chip, bán dẫn, dịch vụ tài chính, tài chính số, công nghệ tài chính (FinTech), trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lập trình, công nghệ giáo dục; hạ tầng cáp quang biển, trạm cập bờ tại các vùng biển/sông.

Nhóm thứ ba là các lĩnh vực thiết yếu chiến lược nhằm tăng sức chống chịu và tự chủ, bao gồm những ngành giữ vai trò sống còn đối với an ninh kinh tế vùng và quốc gia, giúp giảm rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng, củng cố tự chủ năng lượng, lương thực, y tế, dữ liệu và nâng cao khả năng phục hồi dài hạn; năng lượng sạch, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Ngoài quy mô vốn, việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược cần xem xét các yếu tố như năng lực công nghệ, cam kết nghiên cứu và phát triển (R&D), tỷ lệ nội địa hóa, hoặc số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam được tham gia vào chuỗi giá trị. Với một số dự án quan trọng, có thể kèm theo các ràng buộc về đóng góp ngân sách, chỉ số môi trường và trách nhiệm xã hội.

Để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư hàng đầu thế giới, cần áp dụng các hình thức hợp đồng đầu tư. Thành phố cần được phân quyền để bảo đảm quyền đàm phán và ký các hợp đồng đầu tư hay thỏa thuận chiến lược này.

Để cạnh tranh thu hút các tập đoàn toàn cầu, cần áp dụng cơ chế ưu đãi tài chính, thuế mang tính đột phá, nhất là ưu đãi thuế thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu thiết bị R&D, thuế giá trị gia tăng cho các dịch vụ công nghệ cao, áp dụng các mô hình “Visa Công nghệ” hay “Visa Vàng” cho các chuyên gia. Nhà đầu tư chiến lược được cấp quyền phát triển tổng hợp trong một thời gian nhất định, đối với một khu vực xác định; bao gồm cả quyền lập quy hoạch chi tiết, đầu tư hạ tầng nội khu, khai thác thương mại, phát triển dịch vụ hỗ trợ. Nhà nước giám sát theo các chỉ tiêu hiệu suất đất đai.

Thứ ba, về quản lý đô thị, tài nguyên và môi trường, cần có cơ chế tạo quỹ đất sạch cho công nghiệp, dịch vụ; cho phép HĐND thành phố được quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ trong hạn mức nhất định (ví dụ nhỏ hơn 500 héc ta/năm) sang đất công nghiệp, dịch vụ đối với các dự án đầu tư chiến lược trên địa bàn. Đồng thời, cần mở rộng phạm vi áp dụng mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng (TOD) thay vì chỉ giới hạn quanh các tuyến metro đô thị như hiện nay.

Thứ tư, về phát triển các cụm ngành chiến lược, TPHCM cần phải hình thành được những cụm ngành đủ đậm đặc, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, trường đại học, tổ chức nghiên cứu và Nhà nước. Các cụm ngành được ưu tiên bao gồm: công nghệ cao, bán dẫn, AI; tài chính quốc tế, FinTech, dịch vụ doanh nghiệp; logistics, cảng biển, hàng hải; kinh tế biển, năng lượng sạch, dịch vụ dầu khí; công nghiệp văn hóa, nghiên cứu sáng tạo.

Thứ năm, về ban hành sandbox (cơ chế thử nghiệm có kiểm soát) trong lĩnh vực tài chính, công nghệ và đô thị thông minh, TPHCM có thể hình thành một hệ thống sandbox đa tầng.

Trong lĩnh vực tài chính và FinTech, cần cho phép thử nghiệm các mô hình thanh toán xuyên biên giới, ngân hàng số, tài sản số, giao dịch carbon và dịch vụ ngân hàng mở, dưới sự giám sát chặt chẽ nhưng linh hoạt của cơ quan quản lý. Trong lĩnh vực đô thị thông minh, một số khu vực có thể trở thành không gian thử nghiệm cho phương tiện tự hành, quản trị giao thông bằng AI, quản lý năng lượng thông minh, hệ thống IoT tích hợp và các mô hình phân vùng thông minh dựa trên dữ liệu thời gian thực. Đối với cảng biển và hậu cần, có thể cho phép thử nghiệm công nghệ cảng thông minh, tự động hóa cầu cảng, robot logistics, hệ thống blockchain theo dõi chuỗi cung ứng và mô hình quản lý container thông minh...

Cuối cùng, về cơ chế thực thi, trước hết, cần có một đơn vị chuyên trách về thu hút/hỗ trợ nhà đầu tư chiến lược; được trao quyền xử lý thủ tục đầu tư từ đầu đến cuối đối với các dự án chiến lược, có quyền điều phối liên ngành, sở hữu đội ngũ nhân sự tinh hoa được tuyển chọn theo chuẩn quốc tế và trả lương theo cơ chế thị trường. TPHCM cũng cần đẩy mạnh quản trị số, minh bạch hóa và tích hợp dữ liệu để giảm tối đa chi phí giao dịch của doanh nghiệp.

Bên cạnh huy động và sử dụng nguồn lực tư nhân, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt và là nòng cốt trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị. Do đó, kiến nghị Trung ương chấp thuận chủ trương thành lập các tổng công ty 100% vốn nhà nước thuộc TPHCM, bao gồm: (1) tổng công ty dịch vụ công ích; (2) tổng công ty đầu tư tài chính; (3) tổng công ty hạ tầng số; (4) tổng công ty đường sắt đô thị.

Để có đủ năng lực tài chính triển khai các dự án quy mô lớn và đồng hành lâu dài cùng các nhà đầu tư chiến lược, thành phố cần một định chế tài chính phát triển theo mô hình tương tự Temasek của Singapore hay Khazanah của Malaysia, nhưng được thiết kế phù hợp với bối cảnh Việt Nam, có thể tên là Quỹ Đầu tư phát triển TPHCM.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới